Việt Nam 33 năm sau „Đổi mới" (12.1986
- 12.2019):
Thủ đoạn lừa đảo nhân dân và trí
trá với đảng viên!
Âu Dương Thệ
Ngày
6.12.2019 Thủ tướng Đức bà Merkel đă tới
viếng các nạn nhân tại Trại tập trung Auschwitz
(Ba lan). Nơi đây trong Thế
chiến thứ 2 dưới chế độ Quốc xă
Hitler tôn thờ chủ nghĩa quốc gia cực đoan,
đă giết hại trên 1,1 triệu người. Tại
đây bà Merkel đă đọc một diễn văn quan trọng.
Trong đó, cũng như hai Thủ tướng Đức
trước, bà đă đề cao lương tri và tinh thần
trách nhiệm của người lănh đạo một Nước
Đức Mới. Đó là tôn trọng những giá trị
dân chủ và pháp quyền, dám can đảm nh́n nhận thẳng
thắn những tội ác của chế độ độc
tài Hitler. Một số đoạn rất đáng chú ư
(lược dịch):
„Hôm
nay tại đây đứng trước quí vị, nói với
tư cách là Thủ tướng Đức, tôi thấy thật
không dễ ràng. Tôi cảm thấy cực ḱ xẩu hổ
trước những tội ác đă man, những ǵ đă
diễn ra do người Đức đă hành động.
Những tội ác này đă vượt qua tất cả những
ǵ có thể h́nh dung được. Thật là khủng khiếp
về những ǵ mà phụ nữ, đàn ông và trẻ em
đă phải trải qua ở đây…V́ từ ngữ nào có
thể diễn tả nổi sự đau buồn đến
như thế, khiến bao nhiêu người đă bị
hành hạ, đày ải và thủ tiêu?…Nhưng im lặng
không được phép là câu trả lời duy nhất của
chúng tôi. Nơi đây ràng buộc trách nhiệm chúng tôi, phải
cảnh thức hồi tưởng. Chúng tôi phải nhớ
lại những tội ác đă diễn ra ở đây và phải
nói đúng tội danh của nó!...
Nhớ
lại những tội ác, vạch rơ thủ phạm và trân
trọng tưởng nhớ tới các nạn nhân. Đó là
trách nhiệm không bao giờ chấm dứt. Trách nhiệm
này không thể nào san sẻ được, nó liên hệ trực
tiếp tới đất nước tôi. Ư thức trách nhiệm
này là bổn phận của chúng tôi, nó là phần liên đới
chặt chẽ tới h́nh ảnh của đất nước
chúng tôi, đó là một thái độ tự nhiên của một
xă hội có ư thức và tự do, cùng với dân chủ và tôn
trọng pháp quyền.“ (Bundeskanzleramt, 6.12.19)
Sau khi
chế độ Hitler tan ră, nước Đức đă can
đảm và kiên tâm đấu tranh trở thành một Nước
Đức Mới- Trước hết là ở Tây
Đức. Từ một đống tro tàn, hận thù với
các lân bang, Tây Đức đă mau chóng chỉ sau khoảng
hai thập niên, đối nội đă trở thành quốc
gia tân tiến, tôn trọng các giá trị dân chủ, tự
do, pháp trị của một xă hội Dân chủ đa
nguyên (DCĐN). Đối ngoại Tây Đức đă xóa hận
thù với các lân bang, là thành viên tích cực trong Liên minh Âu
châu (EU). Biết chọn Hoa ḱ
làm đồng minh khiến Liên xô (cũ) không dám đụng
tới. Nhờ thế cuối cùng Đông Đức đă
thống nhất với Tây Đức không tốn một
viên đạn từ trên 30 năm nay. Nay Nước Đức
Mới là cường quốc kinh tế thứ ba-thứ
tư trên thế giới, các công dân được quyền
hành xử các quyền tự do căn bản và xă hội phồn
vinh.
***
C̣n VN
từ sau Thế chiến Thứ hai th́ như thế nào? Nhờ
ḷng yêu nước và sự đấu tranh của nhân dân
nên chế độ thực dân đă chấm dứt.
Nhưng thay v́ để lương tri hướng dẫn
thực hiện dân chủ và tôn trọng tự do thực sự
cho mọi người th́ Hồ Chí Minh đă vội nuốt
lời hứa. Sau khi nắm quyền ở miền Bắc
ông đă dùng những thủ đoạn cực ḱ gian xảo
để buộc chặt đất nước trong chủ
nghĩa Marx-Lenin coi là „đũa
thần“; lấy bạo lực, đấu tranh giai cấp,
đàn áp các người khác chính kiến là những tiêu chuẩn
giá trị trong xă hội. V́ thế đă diễn ra cuộc
nội chiến dài tàn khốc và dă man chưa từng có
trong lịch sử dân tộc, với sự tiếp tay từ
bên ngoài. Bao nhiêu triệu người cùng là đồng bào
máu mủ đă bị giết hại trên các chiến
trường Nam-Bắc. Hàng trăm ngàn người bị
bị đấu tố, nhục h́nh, bắt con cháu tố
cáo cha mẹ, ông bà. Hàng triệu người bị giam cầm
trong các trại tập trung, trại cải tạo, trở
thành thuyền nhân phải bỏ thân quyến và quê
hương ra đi! Cao điểm của chính sách tàn bạo
chưa từng có trong lịch sử dân tộc là từ
1975, khi chế độ toàn trị toàn thắng ở miền
Nam!
Những
tội ác khủng khiếp như vậy đối với
chính đồng bào ruột thịt của ḿnh chẳng khác
những tội ác tày trời của Hitler với người
Do thái. Nhưng cho tới ngày hôm nay chưa
có một nhân vật nào đương quyền của CSVN
dám can đảm công khai nh́n nhận và xin lỗi trước
nhân dân. Trái lại, trước sau họ vẫn phản ứng
theo quán tính tiếp tục ngụp
lặn trong độc tài, đàn áp và tham nhũng; v́ thế
đă bỏ lỡ nhiều cơ hội canh tân đất
nước!
***
Đúng
vào dịp này 33 năm trước, số phận chế
độ toàn trị và cả những người cầm
đầu nó đang rơi vào thế cực ḱ hiểm
nguy, như sợi chỉ treo ngàn cân. Bên ngoài Bắc kinh tiếp
tục dùng chiến tranh gây áp lực ở biên giới phía
Bắc và tiếp tay Pol Pot để CSVN bị sa lầy.
Không những thế c̣n bị Hoa ḱ (HK) và các nước Tây
phương phong tỏa thương mại và tẩy chay
ngoại giao. Nguy hiểm nữa là Liên xô khi đó, mụ
đỡ tinh thần và vật chất cho CSVN, cũng
đang rơi vào t́nh trạng tổng khủng hoảng. Giữa
khi ấy ở trong nước nạn đói khủng khiếp
không kém thời 1945, tiền Đồng bị mất giả
với nạn lạm phát phi mă 700-800%. Nhân dân bất măn. Cán
bộ, đảng viên mất niềm tin.
V́ thế
đúng vào những ngày này 33
năm trước, tại Đại hội 6
(15-18.12.1986) Trường Chinh thề thốt „Lấy
dân làm gốc“, Nguyễn Văn Linh long trọng tuyên bố
„Đổi mới hay là chết“! Sau đó họ
c̣n hồ hởi tuyên bố „Cởi trói“ cho
người cầm bút và tôn trọng quyền phản biện
của các chuyên viên và trí thức. Từ Hội nghị Đại
biểu toàn quốc 1.1994 Đỗ Mười đă hứa
đưa VN tới năm 2020 trở thành một nước
công nghiệp! Nay Nguyễn Phú Trọng cũng hô hoán như
thế. Nhưng hơn ba thập niên sau, mặc dầu Liên
xô đă tan ră, chủ nghĩa Marx-Lenin đă bị vất
vào sọt rác, nhưng dịp kỉ niệm 100 năm chế
độ Xô-viết người cầm đầu chế
độ Nguyễn Phú Trọng vẫn c̣n ngủ mơ lảm
nhảm nói sảng rằng: „Tinh thần Cách mạng
Tháng 10 và những thành quả lịch sử cũng như
những cống hiến to lớn của nhân dân các dân tộc
trong Liên bang Xô-viết đối với loài người
măi măi không bao giờ phai mờ, măi măi sẽ c̣n ghi đậm
trong tâm trí của mọi người có lương tâm trên
toàn thế giới.“ (Diễn văn của Nguyễn
Phú Trọng tại lễ Kỉ niệm 100 năm Cách mạng
Tháng 10 Nga (1917-2017), Nhân dân 5.11.17)
Nay
đất nước đang chuyển sang năm 2020.
Nhưng sau 33 năm gọi là „Đổi mới“ đó, VN đang
đứng ở vị thế nào? Trí thức được
mở miệng? Các quyền căn bản của nhân dân
được tôn trọng? Việt Nam đă trở thành một
nước công nghiệp tiên tiến, hay đang trở
thành băi rác chứa chất thải độc hại do các
công ti nước ngoài và các doanh nghiệp nhà nước tự
do thải ra? Các quan đỏ nắm quyền lực
đang phục vụ nhân dân, hay chỉ lo tham nhũng đất
đai và tiền bạc? Biển đảo và toàn vẹn
lănh thổ được bảo vệ, hay đang để
người „Bạn“ Tập Cận B́nh của Nguyễn
Phú Trọng cày nát biển Đông?
Giữa
lúc triều đại Tập Cận B́nh cổ súy chủ
nghĩa tân đế quốc theo đuổi tham vọng „Thực
hiện giấc mộng vĩ đại cùa Trung quốc“,
khiến nước này đang như con hổ đói. Tại
Hội nghị cấp cao kỉ niệm 70 năm thành lập
NATO (3-4.12.2019) ở London, mặc dù c̣n có nhiều khác biệt,
nhưng NATO đă chính thức coi chính sách tăng cường
hải quân-không quân và uy hiếp biển Đông của Cộng
sản Trung quốc (TQ) là một
„thách đố“ nghiêm trọng tới an ninh thế
giới!
Nhưng
mới đây Nguyễn Phú Trọng lại vẫn nhu
nhược và ngờ ngệch cho công bố „Sách trắng
Quốc pḥng 2019“ với chính sách 4 không: „Việt
Nam chủ trương không tham gia liên minh quân sự; không
liên kết với nuớc này để chống nuớc
kia; không cho nuớc ngoài đặt căn cứ quân sự,
hoăc sử dụng länh thổ Việt Nam để chống
lại nuớc khác; không sử dụng vũ lực hoặc
đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc
tế.“ (tr.
25, QPVN 2019). Tại Diễn đàn Hương sơn ở
Bắc kinh (BK) lần thứ 9 ngày 21.10.19 trước sự
hiện diện của bộ trưởng quốc pḥng nhiều
nước và các chuyên viên quốc tế, trong diễn
văn khai mạc Bộ trưởng Quốc pḥng Trung quốc Ngụy Phượng Ḥa đă lập
lại quan điểm của Tập Cận B́nh : Biển
Đông là “phần không thể tách rời của lănh thổ
Trung quốc”. Trong khi đó cũng tại Hội nghị
này, Bộ trưởng Quốc pḥng CSVN Ngô Xuân Lịch không
dám phản bác thẳng thắn chính sách đế quốc của
Ngụy Phương Ḥa, nhưng lại ấp úng chỉ lập
lại chủ trương 4 không và kêu gào những điều
hoàn toàn không có thực trong quan hệ giữa hai nước
: „Trên tinh thần b́nh đẳng, tôn trọng lẫn
nhau và phát huy truyền thống đoàn kết, hữu nghị,
những vấn đề c̣n tồn tại trong quan hệ
giữa Việt Nam và Trung Quốc cần được
kiên tŕ xử lư theo tinh thần thỏa thuận cấp cao
giữa lănh đạo hai nước“ (BBC,VOA, Reuters
22.10.19). Chẳng những thế ngày 10.12.19 Đại sứ
TQ Hùng Ba c̣n được mời tới Học viện
Chính trị Quốc gia HCM „giảng bài cho
lớp đào tạo cán bộ quy hoạch
cấp chiến lược Việt Nam“. Trong
đó ông đă lên tiếng như chỉ bảo cho 100 học
viên là Ủy viên Trung ương
tương lai sẽ nắm giữ các chức vụ then
chốt tại Đại hội 13 vào đầu năm
2021: „Là nước xã hội chủ
nghĩa do Đảng Cộng sản lãnh đạo,
hai nước Trung-Việt có con
đường phát triển tương
tự, tiền đồ và vận mệnh
tương quan, việc tăng cường giao lưu
kinh nghiệm quản lý Đảng và quản
lý đất nước giữa hai Đảng
trong tình hình mới có ý nghĩa
chiến lược quan trọng!“ (đài Bắc
kinh 14.12.19)
Từ
tháng 7.2019 bá quyền BK lại ngang ngược cho mấy
chục tầu hải quân TQ cày nát biển Đông, thuộc
khu vực lănh hải của VN. Trong khi nhiều tổ chức xă hội dân sự, nhân sĩ,
trí thức, thanh niên và cả đảng viên tiến bộ
đ̣i phải đưa những đ̣i hỏi sai trái và
ngang ngược của BK ra kiện tại Ṭa án Quốc tế
th́ Nguyễn Phú Trọng lại ra lệnh báo chí xuyên tạc
và bôi nhọ, và để công an đe dọa khủng bố
và bắt giam nhiều người dân chủ! Đồng
thời không cho phép Quốc hội (QH) được công
khai thảo luận về sự xâm lấn của BK! V́ thế
trong khi đất nước đang phải đối diện
đương đầu với chủ trương bành
trướng xâm lược hiện nay của Tập Cận
B́nh th́ việc thực hiện chính sách quốc pḥng-ngoại
giao 4 không này, rơ ràng không phải là „ngăn địch
từ xa“ mà chính là mời kẻ thù vào nhanh hơn, thả
cửa cho con hổ đói Trung quốc lộng hành. Do
đó chính sách quốc pḥng-ngoại giao 4 không này sẽ dẫn
tất yếu tới cái không thứ 5, đó là không bảo
vệ được chủ quyền biển-đảo,
tài nguyên và quốc pḥng của VN!
Những
người cầm đầu chế độ toàn trị
cũng không dám nh́n thẳng vào thực trạng tang
thương của đất nước và cơ cực
của nhân dân, do chính những sai lầm và tàn bạo do họ
gây ra. Nguyễn Phú Trọng đă từng mở miệng: „Dân
chủ như thế là cùng“, „Đất nước
chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm
lực, vị thế và uy tín như ngày nay“. Nhưng
giữa khi ấy h́nh ảnh 39 thanh thiếu niên VN bị chết
đông lạnh trong các container trên đường đi t́m
cuộc sống mới đă làm thế giới bàng hoàng và
đau buồn về một nước đang phải sống
dưới chế độ đứng đầu về
chà đạp nhân quyền, ḱm kẹp báo chí!
Sau
33 năm đổi mới giả hiệu, chế độ
toàn trị độc tài gian ác tưởng như vẫn vững
chắc. Nhưng thực sự nó đang biến dạng từ
chế độ độc tài của một đảng
trở thành chế độ độc tài cá nhân với sự
tiếp tay và thỏa hiệp giữa một số nhóm lợi
ích với các đại gia đỏ đang thao túng chính trị,
chiếm đất vàng, xây biệt điện và tham nhũng
tiền bạc. Họ đang dùng quyền-tiền
để buôn bán và tham nhũng, từ thượng tầng
trong Bộ chính trị, Trung ương đảng, các Ban
trong đảng, các Bộ trong chính phủ tới các thành ủy,
tỉnh ủy trên toàn quốc. Sự tha hóa đạo đức cùng cực
của tầng lớp cán bộ có quyền đă khiến
số đảng viên bất măn ngày càng gia tăng, khinh bỉ
thành phần lănh đạo. V́ thế Nguyễn Phú Trọng
đă phải ra Quyết định số 102/QĐTW
15.11.17 cực ḱ phản động: „Đảng viên sẽ
bị kỉ luật bằng h́nh thức khai trừ, nếu
đ̣i thực hiện thể chế „tam quyền phân lập“,
„xă hội dân sự“, „đa nguyên, đa đảng“; bôi nhọ
lănh tụ, lănh đạo Đảng, Nhà nước.“
Hiện nay chính người cầm đầu chế độ Nguyễn Phú Trọng lại tiêu biểu nhất về tha hóa đạo đức trong thao túng quyền lực. Ông Trọng thề thốt „nhốt quyền lực“, „nêu gương“, „minh bạch“ … nhưng các lần lấy phiếu tín nhiệm lại không dám công bố kết quả. Các lớp „đào tạo cán bộ cấp chiến lược“ đă cài cắm gần 200 cán bộ sẽ được đưa vào Trung ương đảng Khóa 13 (đầu 2021) để nắm giữ các chức vụ chủ chốt trong Đảng và Chính phủ (CP), nhưng lại giấu nhẹm danh sách những người này, chỉ có Nguyễn Phú Trọng và những người trong phe nhóm biết! Từ nhiều năm nay do đầu óc cực ḱ bảo thủ và suy thoái đạo đức, nên ông Trọng đă tự xếp ḿnh là „người đặc biệt“ cực ḱ tham nhũng quyền lực. V́ thế mặc dầu từ gần một năm nay tuy bị bệnh nặng, không c̣n đủ sức khỏe để đảm đương việc nước, đang phải nhờ người d́u, sắp trở thành ngọa long hoàng đế đỏ, nhưng vẫn cố bám cả hai ghế Tổng bí thư (TBT) và Chủ tịch nước (CTN)! (https://www.youtube.com/watch?v=f01Yc5EsVGk&feature=youtu.be)
***
Nói cho
cùng, trong chính trị có nhiều loại người lănh
đạo, nhưng trong đó có hai loại người cầm
quyền nổi bật nhất. Những người
lănh đạo biết dùng lương tri để hướng
dẫn tri thức và hành động để xây dựng hạnh
phúc cho nhân dân và đưa đất nước đi lên.
Và những người cầm đầu chỉ lấy
gian xảo và tàn ác làm kim chỉ nam cho các hành động của
ḿnh để xây dựng và bảo
vệ quyền lực và tiền bạc bất chính!
Nước
Đức đă đổi mới, đă thay đổi
toàn diện và triệt để là do dứt khoát biết
thay đổi chế độ chính trị.
Từ chế độ Quốc xă độc tài, tôn thờ
chủ nghĩa dân tộc cực đoan, nhưng từ sau Thế chiến
Thứ hai đă dứt khoát chọn và thực hiện chế
độ Dân chủ đa nguyên. C̣n tại VN chế
độ độc tài vẫn ngự trị và áp dụng
chủ nghĩa sai lầm Marx-Lenin, nên trước sau không
thể đổi mới được. Đây là một sự thực không ai có thể phủ
nhận được. Từ Đại hội (ĐH)
6 (12.1986) tới nay 5 đời TBT Nguyễn Văn Linh,
Đỗ Mười, Lê Khả Phiêu, Nông Đức Mạnh
và Nguyễn Phú Trọng đă lừa đảo nhân dân và
đảng viên, trương cờ „Đổi mới“,
nhưng thực t́nh họ vẫn là những người
độc tài, tôn thờ chủ nghĩa Marx-Lenin đă bị
lịch sử vất vào sọt rác!
Đây
là kết luận qua những dẫn chứng rất cụ
thể và rơ ràng trong sách nghiên cứu „Việt Nam „Đổi
mới“ ? !. Hay: Treo đầu dê, bán thịt chó“ !“
trên 700 trang vừa phát hành ở Hoa ḱ. Trong đó xuyên qua 11
chương, tác giả đă phân tích và dẫn chứng theo
phương pháp khoa học, tŕnh bày rơ ràng về các nguyên
nhân và những công thức sai lầm đă khiến chủ
trương gọi là „Đổi mới“ đă đi đến
thất bại; đồng thời nêu rơ những hậu
quả vô cùng tai hại cho đất nước. Nhưng
hiện nay sự tranh giành quyền lực và tiền bạc giữa các phe
nhóm ngày càng tàn bạo và quỉ quyệt; v́ thế theo qui luật
„cùng tắc biến, biến tắc thông, thông tắc cửu“
đang mở ra cơ hội tốt để thoát khỏi
nạn độc tài, đưa đất nước thực
sự thành một Nước Việt Nam Mới!
Tập
sách trên 700 trang có thể vào địa chỉ:
Để
độc giả tiện theo dơi, toàn bộ ba chương
cuối sẽ được phổ biến trong ba lần
liên tiếp. Mở đầu loạt bài này, dưới đây
là toàn bộ Chương 9:
Chương chín
Kết quả thực tiễn
trên 30 năm „Đổi mới“
I.
Mô h́nh „đổi mới „ trên 30 năm qua
Sau trên
30 năm „Đổi mới“ từ 1986 trải qua 5 đời
TBT Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, Lê Khả
Phiêu, Nông Đức Mạnh và Nguyễn Phú Trọng và xuyên
qua 7 ĐH (từ ĐH 6 tới ĐH 12). Không biết bao
nhiêu Nghị quyết đă được ban hành đề
ra mục tiêu là, đưa VN tới năm 2020 trở thành
một nước công nghiệp theo hướng hiện
đại. Nhưng trong cuộc họp nội các vào cuối
năm 2014 sau gần 30 năm tiến hành „đổi mới“,
Nguyễn Tấn Dũng lại than, "sao lại cứ
phải đứng sau 6 nước ASEAN? Chúng ta có đuổi
kịp được ASEAN-6 không? Không có lư do ǵ chúng ta không
cải thiện được để bằng
ASEAN-6"? [1]
Trong thực tế nhiều mặt VN c̣n đi sau cả
Campuchia và Lào.
Sau gần
30 năm đổi mới, lợi tức đầu
người /năm của VN vào năm 2014 mới chỉ
2.052 USD, tức là VN mới chỉ bước vào những
nước đang phát triển ở mức trung b́nh thấp.
Trong khi đó Singapore lên tới 56.287 USD, Mă lai á là 10.830 USD,
Thái lan là 5.561 USD và Nam dương là 3.515 USD. PGS, TS Phạm
Quư Thọ thuộc Học viện Chính sách và phát triển,
Bộ Kế hoạch và Đầu tư nhận xét, „chỉ
tiêu này của nước ta tụt hậu so với Hàn quốc
chừng 30 đến 35 năm, Malaysia khoảng 25 năm,
Thái lan chừng 20 năm, Indonesia và Philippines chừng từ
5 đến 7 năm. Đến năm 2038 VN mới có thể
bắt kịp năng suất lao động của
Philippines và đến năm 2069 mới có thể bắt kịp
Thái Lan.“ [2]
Nếu
xét về mặt diện tích và dân số th́ VN không phải
là nước nhỏ. Với dân số gần 94 triệu
(2017) VN đứng thứ 13 trên thế giới[3]; với
diện tích trên 331.114 km² VN
đứng thứ 65. Nhưng
về mặt kinh tế, xă hội (phát triển con người
-HDI) hiện nay VN lại đứng thứ 116 trong tổng
số gần 200 nước và ốc đảo trên giới.[4]
Nhiều người cầm đầu chế độ
toàn trị thường đổ lỗi cho rằng, VN là
một nước nhược tiểu, đất hẹp,
dân không đông và tài nguyên không nhiều. Đây là những khẳng
định cực ḱ sai lầm để trốn tránh trách
nhiệm. Một số các nước trong khu vực
như Nam Hàn diện tích chỉ trên 99.000km², 50,6 triệu
người, nhưng lợi tức đầu người
2015 trên 27.000 USD đang là
nước giầu mạnh, công nghiệp cao. Nhật có dân
số gần gấp rưỡi VN, diện tích xấp xỉ
với VN, tài nguyên thiên nhiên không nhiều, nhưng từ lâu
đă trở thành cường quốc kinh tế, lợi tức
đầu người năm 2015 là gần 37.000 USD. Về
dân số và diện tích giữa VN và Đức không chênh lệch
bao nhiêu; nhưng Đức, cũng như Nhật, từ
đống tro tàn sau Thế chiến thứ 2 đă nhanh
chóng vượt lên thành cường quốc kinh tế
đứng thứ ba, thứ bốn trên thế giới.
Những
câu hỏi trung tâm rất nghiêm túc cần được
đặt ra là, tại sao nhiều nước ngay trong khu
vực khi bước vào thời ḱ phát triển kinh tế
th́ cũng ở tŕnh độ ngang ngửa như VN,
nhưng nay đă bỏ xa VN để trở thành các nước
công nghiệp hàng đầu, lợi tức cao gấp mấy
chục lần VN? Người dân không chỉ sống sung
túc mà c̣n được tôn trọng nhân phẩm. Phải
chăng các mô h́nh chính trị, kinh tế, giáo dục và
văn hóa là những nền tảng căn bản cho sự
tiến lên hưng thịnh, hạnh phúc và văn minh, hay sự
tụt hậu, nghèo đói và tha hóa đạo đức của
một xă hội? VN đang áp dụng mô h́nh chính trị-kinh
tế nào, có những đặc điểm ǵ?
Trong suốt
trên 30 năm cải cách kinh tế chưa bao giờ VN theo
mô h́nh kinh tế thị trường hiện đại
như ở các nước Tây phương. Mô h́nh phát triển của
VN là „Kinh tế thị trường Định hướng
XHCN“. Mô h́nh này có một số đặc tính căn bản
khác biệt hoàn toàn với các nền Kinh tế thị
trường hiện đại ở các nước Tây
phương trong các lănh vực then chốt:
1. Chế độ
độc đảng: ĐCS, cụ thể là Bộ chính
trị (BCT) và Ban bí thư (BBT), trước sau vẫn chỉ
huy toàn bộ và trực tiếp các hoạt động chính
trị, kinh tế, văn hóa- giáo dục, tôn giáo và xă hội.
2.
Công hữu toàn dân về đất đai (ĐCS là chủ
nhân trong đất đai)
3.
Doanh nghiệp nhà nước làm chủ đạo
4. Kinh tế tư nhân
nội địa tuy được công nhận, nhưng
chỉ ngồi ŕa, đứng bên lề
trước thế
lực mạnh của Doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) và
sức ép của FDI
(công ti nước
ngoài)
Như
thế cho thấy mô h́nh phát triển kinh tế của VN từ
1986 tới nay vẫn c̣n giữ căn bản mô h́nh kinh tế
của chế độ toàn trị như ở Liên xô cũ,
với một số biến thể, mặc dầu chế
độ toàn trị ở Liên xô đă tan ră từ 1991.
Trong đó ĐCSVN vẫn là người cầm trịch không
chỉ trong chính trị, tư tưởng và văn hóa, mà cả
trong kinh tế-xă hội. Mỗi ĐH vẫn đưa ra
kế hoạch ngũ niên do ĐCS độc quyền từ
các khâu hoạch định, đường lối tới
các biện pháp…Nhưng dĩ nhiên trong giai đoạn
và điều kiện Chủ nghĩa xă hội (CNXH) trên
toàn thế giới đang tan ră ngay từ cái nôi, nên những
người cầm đầu CSVN bắt buộc phải
dùng những từ ngữ và ngôn ngữ mới, để
tạo những hi vọng mới, để tỏ ra họ
là những người thức thời và nhờ thế mới
có thể biện minh cho sự tiếp tục cầm quyền
độc tôn!
Mô h́nh
phát triển kinh tế này chứa đựng nhiều mâu
thuẫn nội tại và đối lập với nhau. Nó
được thực hiện trong thời ḱ CNXH theo ư thức
hệ Marx-Lenin đă bị thực tế phủ nhận,
thế giới CS tan ră. ĐCSVN cũng rơi vào thế sợi
chỉ treo ngàn cân. Suốt trên 30 năm đổi mới từ
1986, đặc biệt từ giữa thập niên 90 khi thiết
lập quan hệ với Hoa ḱ và thực hiện chính sách mở
cửa với bên ngoài, mô h́nh phát triển kinh tế của
chế độ toàn trị dựa trên một số
cơ sở làm tiền đề đặt trọng tâm
cho phát triển kinh tế. Đó là:
§
Nhân công rẻ
§
Khai thác nông sản
§
Khai thác khoáng sản
§
Ưu đăi cho tư bản
nước ngoài vào đầu tư
§
Tranh thủ nguồn vốn
ODA trong xây dựng hạ tầng
§
Đặt trọng tâm
trong xuất cảng
Nhưng các cơ sở trên phải
được đặt trong một khung kiên cố, nói thẳng
ra là bị nhốt trong một cái lồng, đó là CNXH với
tư tưởng Marx-Lenin làm chỉ đạo và trong cái lồng
này, ĐCSVN chỉ huy độc quyền trực tiếp
và toàn diện từ tổ chức, thực hiện, giám
sát các hoạt động kinh tế-xă hội. ĐH
12 đă làm công việc tổng kết 30 năm thực hiện
chính sách đổi mới (1986-2016) qua 5 đời TBT Nguyễn
Văn Linh, Đỗ Mười, Lê Khả Phiêu, Nông Đức
Mạnh và Nguyễn Phú Trọng.
Mặc dù những người đứng
đầu luôn mở miệng khẳng định là, kết quả thực tiễn chứng
minh cho lí thuyết
và đường lối. Nhưng khi họ phải đối
diện với những kết quả rất xấu th́ lại
không dám nhận đă chọn lí thuyết sai, ở đây
là chủ nghĩa Marx-Lenin. Họ lờ đi hoặc nhận lỗi
qua loa, nhưng đổ lỗi chính v́ những lí do bên
ngoài. Thái độ rất chủ quan, giáo điều, lừa
dối và tô vẽ cho rằng, 30 năm đổi mới
không chỉ tạo ra những thành tích tuyệt vời trong
kinh tế-xă hội, mà cả trong lănh vực chính trị cũng
đă có nhiều cải cách theo hướng „lấy dân làm
gốc“ và dân chủ hơn ngàn lần các nước Dân chủ
đa nguyên… Tiêu biểu nhất cho lập trường này
là Báo cáo Chính trị và Kinh tế-Xă hội tại ĐH 12 của
TBT Nguyễn Phú Trọng ngay vào ngày đầu của ĐH
12.[5]
(Xem Chương tám, IV).
***
Trong dịp
này một số chuyên viên trong nước từ gần với
đảng hay đứng vị thế độc lập
của những người người làm công tác khoa học,
trong đó có cả một số chuyên viên VN ở nước
ngoài, đă công bố các bài nghiên cứu hoặc trả lời
phỏng vấn liên quan tới chủ đề kết quả
30 năm đổi mới.
Trước
hết phải nói tới nhận định rất thắng
thắn của cựu bộ trưởng Kế hoạch
và Đầu tư Bùi Quang
Vinh ngay trước ĐH 12 khi ông c̣n là Bộ trưởng
và Ủy viên Trung ương (UVTU), như đă tŕnh bày ở
Chương tám, IV:
„ 70
năm qua, cơ cấu tổ chức, phương thức
hoạt động của bộ máy Đảng, Nhà nước,
đoàn thể các cấp trong hệ thống chính trị gần
như không thay đổi.“ Và "Một hệ thống
chính trị phù hợp với nền kinh tế kế hoạch
hóa tập trung trước đây, đặc biệt là
trong hoàn cảnh chiến tranh, nay đă không c̣n phù hợp với
điều kiện nền kinh tế thị trường,
thậm chí là rào cản, trở ngại cho sự phát triển.“
[6]
Chia
sẻ quan điểm này GS Vũ Dương Ninh, Đại
học Quốc gia Hà nội (HN), cho biết, trước
đó 5 năm Nghị quyết
của ĐH 11 (1.11) -khi đó Nguyễn Phú Trọng
được bầu làm TBT- đă lập lại mục
tiêu là, đến năm 2020 nước ta cơ bản trở
thành một nước công nghiệp theo
hướng hiện đại. Nhưng ĐH 12 đă
phải nh́n nhận rằng, mục tiêu này không thể
đạt được.[7] Ngay cả nguyên Chủ tịch Viện
Hàn lâm Khoa học Xă hội VN, GS TS Đỗ Hoài Nam, một
nhà khoa bảng hàng đầu của chế độ toàn
trị , từng là UVTU suốt ba nhiệm ḱ từ ĐH
8-10 và có chân trong Hội đồng Lí luận Trung
ương (TU) -một cơ quan cố vấn về tư
tưởng và chính trị cho TUĐ, BCT và BBT-, trong một
bài phân tích rất dài 14 trang trên tạp chí Nghiên cứu kinh tế
số 1, 1.15 với tựa đề „Những đổi
mới tư duy của Đảng về công nghiệp hóa,
hiện đại hóa trong 30 năm đổi mới“. Ông
đă liệt kê các quyết định của đảng
xuyên qua 6 Đại hội từ 1986 tới ĐH 11 (2011)
với việc sử dụng „kinh tế tri thức“ và
đầu tư của nước ngoài nhằm công nghiệp
hóa, hiện đại hóa nền kinh tế từ nông nghiệp,
công nghiệp tới xuất nhập cảng. Ông ca tụng
các quyết định này và coi đó là những biện
pháp sáng suốt của ĐCS, nhằm đưa VN, từ
một nước đi sau và công nghiệp hóa muộn, có
thể đạt mục tiêu „rút ngắn quá tŕnh công nghiệp
hóa đất nước bằng sức mạnh của thời
đại và sức mạnh nội sinh của đất
nước“. Nhưng cuối cùng trong
phần kết luận Đỗ Hoài Nam phải nh́n nhận
kết quả thực tiễn sau 30 năm đổi mới
là, „nh́n trên tổng thể, phần lớn nông dân và người
dân đô thị đang trong t́nh trạng nghèo tương
đối, trong đó không ít người đang thực sự
nghèo theo nghĩa tuyệt đối.“
Ông nêu
ra câu hỏi về nguyên nhân, tại sao không đạt mục
tiêu, mặc dầu các quyết định đều
được coi là sáng suốt? Trong đó Đỗ Hoài
Nam đă cố t́nh dùng các thuật ngữ trừu tượng
và tŕnh bày ngoắt nghéo, như „nguyên nhân cơ bản là, nền
tảng cho sự rút ngắn này chưa được tạo
lập một cách đầy đủ và vững chắc.
Đó là nền kinh tế thị trường đầy
đủ và hiện đại (xét cả mặt kết cấu
lẫn mặt thể chế của nền kinh tế này),
cơ sở hạ tầng đồng bộ và hiện
đại; là khoa học và công nghệ hiện đại,
nguồn nhân lực chất lượng cao; là hệ thống
công ti tư nhân dựa trên sở hữu cổ phần
được quản trị hiện đại, đủ
sức cạnh tranh trên thị trường trong nước
[và] quốc tế, tham gia sâu vào chuỗi giá trị và chuỗi
phân phối toàn cầu và cuối cùng là vai tṛ vừa là bà
đỡ, vừa là nhạc trưởng của Nhà nước
bảo đảm co sự rút ngắn.“ (tr.15)
Tuy cố
t́nh tŕnh bày ṿng vo và tránh né không dám nêu đích danh thủ phạm
đă gây ra thất bại, nhưng nhà khoa bảng XHCN hàng đầu Đỗ Hoài
Nam đă gián tiếp nh́n nhận, đó là kế hoạch
xây nhà trên cát; hay dùng h́nh tượng chuyện con nhái muốn
to bằng con ḅ để diễn tả ư muốn công nghiệp
hóa và hiện đại hóa VN thật nhanh như Nhật bản,
Đại Hàn và các nước Tây phương, nhưng lại
thiếu đủ mọi thứ và không có những điều
kiện cần thiết; trong đó thiếu cả „ nhạc
trưởng“, tức Nhà nước hiện đại
trong thể chế DCĐN. Trong khi nhiều nước theo
DCĐN cũng chỉ trong khoảng thời gian 30 năm
đă chuyển thành công đất nước họ, từ
lạc hậu chậm tiến sang công nghiệp hiện
đại. Nhưng VN dưới chế độ toàn trị
vẫn dẫm chân tại chỗ.
Nghĩa là, chính thể chế độc tài toàn trị
đă là nguyên nhân chính đưa đến thất bại
trong việc canh tân đất nước và xây dựng hạnh
phúc cho nhân dân trong suốt 30 năm!
Trong
toàn bài, Đỗ Hoài Nam có dẫn chứng là, ngay từ
ĐH 7 đă quyết định
„cần đổi mới toàn diện, đồng bộ
và triệt để“ (tr. 5); nghĩa là phải đối
mới cả hệ thống chính trị. Nhưng khi kết
luận tuy phải nh́n nhận các thất bại, nhà khoa bảng
Đỗ Hoài Nam đă không giữ được tinh thần
khoa học và thẳng thắn như cựu Bộ trưởng
Bùi quang Vinh, nên không một lần nào dám nói thẳng là, trong
suốt quá tŕnh 30 năm, trước sau vẫn là chế
độ độc tài toàn trị. Đó mới chính là
nguyên nhân của mọi nguyên nhân dẫn tới thất bại!
Chế
độ toàn trị đă chọn ư thức hệ sai lầm
dẫn tới độc tài hà khắc, làm triệt tiêu sự
phản biện rất cần thiết của một hệ
thống xă hội dân sự
độc lập. V́ thế toàn bộ hệ thống công
quyền trở thành tŕ trệ và bất cập, chống lại
sự canh tân và phát triển của đất nước.
Đây
là nhận định của PGS, TS Trần Đ́nh Thiên
nguyên là Viện trưởng Viện Kinh tế VN, Chủ tịch
Hội đồng Khoa học Viện Kinh tế VN, khi nói về
nguyên nhân thất bại trong kinh tế:
„ĐCS
lănh vai tṛ lănh đạo tuyệt đối, toàn diện“,
mức độ chưa trưởng thành của Nhà nước
pháp quyền, sự thiếu vắng các tổ chức dân sự
đúng nghĩa, của các tổ chức phản biện
xă hội độc lập, có ảnh hưởng mạnh
mẽ, thậm chí là quyết định, đến kết
quả hoạt động quản trị công.“ [8]
„Trong nhiều trường hợp, t́nh trạng không cụ
thể hóa mục tiêu định hướng, né tránh thảo
luận cấu trúc logic của khái niệm “Định
hướng XHCN“ (ĐHXHCN), lặng lẽ giả định
nó, coi như một tiền đề định sẵn,
đă có những ảnh hưởng to lớn.“ [9]
Thực
tế này cũng được GS Trần Văn Thọ
(Đại học Waseda, Nhật bản) tŕnh bày cặn kẽ
hơn, khi ông so sánh sự phát triển kinh tế-xă hội
của VN với một số
nước trong khu vực th́ rơ ràng khác biệt nhau cả một
trời một vực. Theo tài liệu của Ủy ban
LHQ về kinh tế và xă hội châu Á - Thái b́nh dương
(ECAFE), năm 1954 thu nhập đầu người của
miền Nam VN là 117 USD, xấp xỉ với Thái Lan (108) và
cao hơn Indonesia (88) vào hai năm trước đó.
Nhưng 60 năm sau, vào năm 2014 thu nhập đầu
người của VN chỉ bằng một phần ba Thái
Lan và một nửa Indonesia…Trong khi „Hàn quốc chỉ mất
16 năm (từ 1971-1987) để chuyển từ nước
thu nhập trung b́nh thấp lên trung b́nh cao và chỉ mất
thêm 10 năm nữa để tiến lên hàng các nước
tiên tiến. Đài loan trở thành nền kinh tế tiên tiến
vào năm 1995, chỉ tốn 12 năm kể từ giai
đoạn thu nhập trung b́nh cao.“ [10]
Sau
hơn 40 năm ḥa b́nh trong đó hơn 30 năm gọi là
đổi mới, nhưng VN vẫn lẹt đẹt thuộc
những nước có thu nhập trung b́nh thấp và
đang có nguy cơ phải ngụp lặn lâu dài ở mức
này. Ông Thọ c̣n nêu ra viễn tượng kinh tế VN vào
năm 2020. Hiện nay theo phân loại của Ngân hàng thế
giới, b́nh quân đầu người từ 1.000 đến
12.000 USD là nước có thu nhập trung b́nh, trên 12.000 USD là
nước thu nhập cao. Do đó một nước
được gọi là công nghiệp phải ở mức
trên 12.000 USD. VN hiện nay mới gần 2.000 USD. Đến
năm 2020 có lẽ cũng chỉ đạt được
khoảng 3.000-3.500 USD, tức là thuộc các nước có mức
trung b́nh thấp. [11]
II. Nông
nghiệp: Bỏ rơi nông dân và nông thôn!
Chủ trương công
nghiệp hóa nông nghiệp, nhưng sau 30 năm đổi mới vẫn là
cảnh con trâu đi trước cái cày đi sau!
VN là một
nước nông nghiệp, vào thập niên 80 của thế kỉ
trước có tới 80% dân số sống và phụ thuộc
vào nghề nông. Đồng bằng sông Hồng và nhất
là Đồng bằng Cửu long là hai thúng gạo nuôi dân và
xuất cảng để tạo cơ sở và ngân sách cho
xây dựng công nghiệp, phát triển bền vững cho
toàn quốc. Nếu hiểu thấu đáo thế mạnh
này của VN và có được một tầm nh́n xa th́ một
nhà nước sáng suốt không chỉ t́m cách làm phục hồi
nông nghiệp, mà c̣n phải canh tân, công nghiệp hóa mọi
khâu trong nông nghiệp. Từ tạo kiến thức trồng
trọt cho nông dân, đem điện nước, đường
xá, trường học và y tế về thôn xă, trả lại
quyền tư hữu ruộng đất cho nông dân, và có những
chính sách khuyến khích nông dân tự nguyện hợp tác
để sử dụng kĩ thuật canh tác mới nhằm
gia tăng năng suất và tăng lợi tức cho nông
dân, tức là gia tăng sức mua và đầu tư của
80% dân số. Ngoài ra nhà nước
cần có chính sách khuyến khích phát triển công nghiệp
chế biến nông - lâm - thủy sản để làm
tăng giá trị các mặt hàng này; khuyến khích và hỗ
trợ nông dân tự thành lập các trung tâm hiện đại
lưu trữ gạo, rau trái và các tổ chức của
nông dân theo dơi thị trường nông nghiệp trên thế
giới để tạo thương hiệu có uy tín cho
các sản phẩm nông nghiệp của VN và có sức cạnh
tranh mạnh trên thị trường quốc tế.
Các
chính sách trên đây không phải là những điều mới
lạ, trái lại đă được thực hiện
thành công ở nhiều nước phương Tây dưới
nhiều tên gọi nổi tiếng, như „Chương
tŕnh xanh“ trong ngành nông nghiệp, như Ḥa lan, Đức,
Pháp, Hoa ḱ và Gia nă đại. Đúng ra là một nước
đi sau, nên VN cỏ thể học hỏi nhanh chóng và hiệu
quả kinh nghiệm và kĩ thuật của các nước
này.
Sau
chiến thắng 1975 những người cầm đầu
say mê với thành tích con đường XHCN đă dẫn tới
chiến thắng vẻ vang trong chiến tranh th́ tất yếu
cũng sẽ dẫn tới thắng lợi thần ḱ
trong kinh tế! Đây là tư tưởng rất lạc
quan từ Lê Duẩn, Phạm Văn Đồng tới hầu
hết các ủy viên BCT khi ấy. V́ thế mô h́nh kinh tế
theo XHCN đă được thi hành cấp tốc và triệt
để trong nông nghiệp với các Hợp tác xă (HTX),
trong thương nghiệp với xóa bỏ tư sản mại
bản kinh tế tư nhân và thành lập các thương
nghiệp quốc doanh, trong công nghiệp với hàng loạt
doanh nghiệp quốc doanh. Nhưng sau đó không lâu,
mô h́nh phát triển theo XHCN đă dẫn tới bế tắc
toàn diện. Nông dân không chịu làm ăn, thương nghiệp
nhà nước không có hàng để bán, các DNNN ngồi
chơi. Dẫn tới nạn đói khủng khiếp vào
giữa thập niên 80, khiến cho hàng triệu người
rơi vào cảnh đói và khủng hoảng lương thực
trầm trọng như thời 1945. Trong khi các cán bộ cao
cấp được hưởng các chính sách ưu đăi
từ nhà cửa, xe đưa đón tới chế độ
ăn uống ngon và đầy đủ; c̣n người
dân th́ không có cả thịt, cá, vải, thuốc men và các nhu
yếu phẩm hàng ngày.[12]
Nhóm cầm đầu giáo điều mới thấy là
không thể tiếp tục mô h́nh tập thể hóa nông nghiệp
HTX theo kiểu Liên xô và TQ được nữa, nếu
không th́ nông dân và thị dân sẽ nổi loạn.
Nhưng
sau ĐH 6 (12.86) phải đợi thêm hơn một
năm, sau những tranh căi gay gắt giữa các phe trong BCT
và TU, mới ra được Nghị quyết (NQ) 10 ngày
5.4.1988, được gọi là Khoán 10. Tuy vậy đảng xuyên qua nhà
nước của đảng vẫn tiếp tục giữ
độc quyền công hữu ruộng đất, nông dân
vẫn phải thuê ruộng (xem Chương một,
III và Chương hai, V). Tuy đây chỉ là chính sách đổi
mới nửa vời, nhưng đă làm cho nông dân gắn bó
siêng năng với đồng ruộng, thửa vườn,
cái ao và gia súc. Nhờ thế sản lượng nông nghiệp
đă gia tăng mạnh và liên tiếp trong nhiều năm.
Khiến cho từ khủng hoảng lương thực với
nạn đói trầm trọng, từ 1989 đă trở thành một nước
xuất cảng gạo.
Trước
khi có Khoán 10, sản suất lúa cả nước chỉ
khoảng 13 triệu tấn, hàng năm phải nhập khẩu
hàng triệu tấn.[13]
Năm 2017 sản lượng lúa đă đạt khoảng
42,84 triệu tấn.[14]
Trong những năm gần đây số gạo xuất khẩu
đă lên tới gần 8 triệu tấn, đứng thứ
hai trên thế giới về xuất cảng gạo.[15] Nhưng
nay sau hơn 30 năm nông dân và nông nghiệp tại VN vẫn
phải đối diện gay gắt trong nhiều vấn
đề. Nhiều chuyên viên trong nước ta thán là, tại
sao VN đang là nước xuất khẩu gạo đứng
thứ hai trên thế giới, nhưng đại đa số
nông dân vẫn rất nghèo, ngay cả nông dân Đồng bằng
Cửu long, vựa thóc của cả nước?
Trong khi ấy ngay sau Hội nghị Đại biểu toàn
quốc giữa nhiệm ḱ tháng 1.94 (Khóa 7), tại Hội
nghị trung ương (HNTU) 7 (7.94) đă đưa ra nghị
quyết với tham vọng „phát triển công nghiệp, thực
hiện công nghiệp hóa nông nghiệp và nông thôn gắn với
đô thị hóa nông thôn.“ [16]
Tại
sao giá gạo của VN vẫn thấp hơn nhiều gạo
Thái lan và cho tới nay sau mấy chục năm xuất khẩu,
nhưng gạo của VN vẫn chưa có thương hiệu
uy tín trên thị trường quốc tế, chỉ bán
được cho một số nước với giá thấp?
Sau hơn 30 năm thực hiện chính sách tam nông (nông nghiệp,
nông dân, nông thôn) coi „nông nhiệp là mặt trận hàng đầu“,
nhưng tại sao máy móc và kĩ thuật canh tác vẫn rất
lạc hậu, tiếp tục lối làm ăn thô sơ con
trâu đi trước cái cày đi sau? Tại ĐH 10
(2006) những người cầm đầu toàn trị thổi
lên tiêu chí từ „ăn no“ sang „ăn ngon“! UVTU Đỗ Hoài
Nam khi ấy đă cho biết, ĐH 10 đă ra NQ khẳng
định đưa „nền nông nghiệp VN phải h́nh
thành được một số sản phẩm chủ lực,
mũi nhọn có lợi thế phát triển, có phẩm chất
tốt, chất lượng cao và qua chế biến sâu,
đủ sức cạnh tranh trên thị trường trong
nước và thế giới để có giá trị gia
tăng cao.“ Ông c̣n cho biết thêm, tại HNTU 7 Khóa 10 đă
ra NQ về nông nghiệp, nông dân và nông thôn theo hướng
này và lănh đạo vẫn
tuyên bố, nông nghiệp là mũi nhọn.[17]
Nhưng
tại sao tới nay vẫn thường diễn ra
„được mùa mất giá“ cho nông dân? Tại sao sau hơn 30 năm vẫn
không lập được các trung tâm lưu trữ gạo
hiện đại và không thiết lập được
công nghiệp chế biến nông sản; trong khi đó lại
bỏ hàng ngàn tỉ đồng xây các cảng để chỉ
nằm đắp chiếu, hay bỏ ra cả hàng trăm tỉ
hoang phí để xây các tượng đài cho các nhà độc
tài của Đảng? Sau 30 năm đổi mới,
nhưng tại „Diễn đàn nông nghiệp“ do CP tổ chức
vào giữa tháng 10. 2016 lại vẫn lập lại, phải
tạo một thương hiệu quốc tế tốt
cho gạo xuất khẩu của VN! Nhưng nhiều chuyên
gia đă chua chát nói thẳng: „Thương hiệu gạo,
có đâu mà mất!“ [18]
Một
sản phẩm (công nghiệp hay nông nghiệp) phải có chất
lượng tốt, được tín nhiệm của
khách hàng, người tiêu dùng tín nhiệm và sẵn sàng trả
giá cao. Họ sẽ tiếp tục t́m thương hiệu
này. Thí dụ như trong sản phẩm xe hơi và điện
tử, người tiêu dùng thường thích xe hơi
Toyota, Mercedes và Samsung…. v́ có phẩm chất tốt. Nhưng
sau gần 30 năm xuất cảng gạo, gạo của
VN vẫn không có thương hiệu có uy tín trên thị
trường nông sản thế giới. Đầu năm
2016 nhiều chuyên viên và ngay cả các cán bộ phụ trách
nông nghiệp cũng đă ta thán và nh́n nhận t́nh h́nh rất
bất lợi này trong việc xuất cảng các nông sản
của VN… Phó Cục trưởng Cục xuất nhập
khẩu, bộ Công thương Trần Thanh Hải cho biết,
năm 2015 gạo VN chiếm trên 50% tổng số gạo
nhập khẩu của TQ, nhưng tại các siêu thị và
cửa hàng lại không t́m ra gạo mang thương hiệu
VN. Trong khi ấy, gạo Campuchia lại chễm chệ trên
các cửa hàng. Chè, cà phê, hạt tiêu... là các nông sản xuất
khẩu lớn của VN, nhưng vị thế cũng
tương tự. Cựu Hiệu trưởng Trường
Cán bộ quản lư nông nghiệp và phát triển nông thôn II
(thành phố HCM) Vũ Trọng Khải
cho biết, nguyên nhân đang gây bất lợi cho quyền lợi
của nông dân, là v́ các doanh nghiệp
xuất khẩu gạo ở VN đều là DNNN, nên vẫn
giữ tâm lí thờ ơ cha chung không ai khóc! [19]
Tại
Hội nghị toàn quốc triển khai Chương tŕnh mục
tiêu Quốc gia xây dựng Nông thôn mới 30.9.16 với sự
hiện diện của tân TT Nguyễn Xuân Phúc, được
biết sau 30 năm thực hiện chủ trương lấy
nông nghiệp làm mũi nhọn để xây dựng „nông
thôn mới“ nâng cao đời sống vật chất và
văn hóa của nông dân, nhưng tới tháng 9.16 mới chỉ
có 2.045 xă (23%) được công nhận đạt chuẩn
nông thôn mới.[20]
Liệu con số đưa ra có chính xác không, không ai biết.
Nhưng sau 30 năm mới chỉ có gần ¼ xă ở nông
thôn tên toàn quốc đạt tiêu chuẩn nông thông mới.
Đây là nh́n nhận thất bại trong việc cải thiện
đời sống mấy chục triệu nông dân!
Trong
khi chính phủ Nguyễn Tấn Dũng bảo đảm
để nông dân được hưởng lăi ít nhất
là 30% so với giá thành, nhưng dịp này tại QH bộ
trưởng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Cao đức
Phát lại cho biết, “giá thành 1 kg lúa là 4.100đ/kg như vậy
giá thu mua lúa phải đạt 5.400đ/kg th́ người
trồng lúa mới lăi 30%. Nhưng hiện nay giá lúa khô loại
thường nông dân cũng chỉ bán được
4.500đ, lúa hạt dài khoảng 4.800đ“. Nghĩa là chỉ
đạt được 10% lăi. Bà Phạm Chi Lan cho biết,
từ 2007 khi VN gia nhập WTO th́ đầu tư cho nông
nghiệp đă giảm rất mạnh và liên tục, „trước
khi VN gia nhập WTO th́ tỷ trọng đầu tư toàn
xă hội vào nông nghiệp nhất là đầu tư của
Nhà nước cũng c̣n tương đối cao chiếm
tới 13,8% trong tổng mức đầu tư, nhưng sau vài năm tham gia vào WTO
th́ mức đầu tư vào nông nghiệp giảm xuống
chỉ c̣n 6,4% trong tổng mức đầu tư phát triển.“
Đây
rơ ràng là thái độ trọng công, khinh nông và bỏ nội,
trọng ngoại của những người làm chính sách.
Theo bà, chính sách bỏ rơi nông dân và nông nghiệp của
chính quyền CSVN hoàn toàn trái ngược với các nước
khác, „hầu hết các nước khi hội nhập họ
đều lo bảo hộ nông sản, nhưng VN th́ ngược
lại buông nông sản, buông nông nghiệp và ngành này phải
tự bơi tự bươn chải.“ Trong khi ấy „ nguồn
lực đầu tư dồn quá nhiều cho DNNN, quá nhiều
cho các Tập đoàn Kinh tế để rồi họ gây
biết bao vấn đề cho nền kinh tế hiện
nay.” [21]
Thái độ khinh nông dẫn
tới các chính chính sách bỏ rơi nông dân đă khiến
cho tốc độ tăng trưởng trong nông nghiệp
đă giảm liên tục từ giữa thập niên 90. Trong
dịp tổng kết 30 năm đổi mới vào dịp
ĐH 12 nhiều chuyên gia về nông nghiệp thảo luận
trên các cơ quan truyền thông. Họ sử dụng ngay lí
luận của chế độ toàn trị là, kết quả
thực tiễn chứng minh cho lí thuyết đúng hay sai. Khi
„Tổng kết thực tiễn“ trong 30 năm đổi mới
trong nông nghiệp họ đă nhận thấy rất rơ, tốc
độ trăng trưởng trong nông nghiệp không
tăng, trái lại đă giảm liên tục từ kế
hoạch ngũ niên này sang kế hoạch ngũ niên khác.
Tốc độ tăng
trưởng nông nghiêp từ 1996-2013[22]
Thời
gian Tốc
dộ gia tăng
1996-2000 4,01%
2001-2005 3,83%
2006-2010 3,03%
2009-2013 2,9%
Theo Tổng Cục Thống
kê, khu vực nông, lâm và thủy sản tăng 0,65%, là mức
tăng thấp nhất so với cùng kỳ 6 năm.[23] Các con số
trên giải thích t́nh trạng chung trong sản xuất nông
nghiệp: Nông nghiệp đă bị bỏ rơi, nông dân
không được giúp đỡ các mặt cần thiết,
nên năng suất lao động trong nông nghiệp rất
thấp và giảm liên tục.
Trong bản Báo cáo 2016 của Ngân hàng Thế
giới (WB) về phát triển nông nghiệp của VN
đă xác nhận lối canh tác chậm
tiến, lạc hậu thiếu cơ giới hóa nông nghiệp
và lạm dụng thuốc trừ sâu, nông dân thất nghiệp
gia tăng, chất lượng xấu.[24] WB c̣n cho biết,
những năm gần đây mỗi năm nông nghiệp VN
phải chịu thiệt hại khoảng 1 tỉ USD v́ mất
thị trường xuất khẩu do không tuân thủ các
qui định vệ sinh an toàn thực phẩm.[25]
Cuối tháng 8.16 bộ Nông
nghiệp & phát triển nông thôn (NN&PTTN) đă họp tổng
kết 3 năm tái cơ cấu trong nông nghiệp (2013-15) có
mặt Phó TT Trịnh Đ́nh Dũng và bộ trưởng
Nông nghiệp Nguyễn Xuân Cường. Các viên chức này
xác nhận, không có chuyển biến thuận lợi, v́ ruộng
đất vẫn bị xé nhỏ cho nên không thể công
nghiệp hóa nông nghiệp.[26] Ngân hàng Thế
giới cho biết, đất nông nghiệp chia theo đầu
người ở VN rất thấp, “chỉ đạt
b́nh quân 0,07 hecta, thấp hơn nhiều so với tỉ lệ
0,27 hecta mỗi người tại Thái lan .[27] TS Lê
Đăng Doanh nêu rơ một nguyên khác khiến các sản phẩm
nông nghiệp có giá trị rất thấp và nông dân nghèo, v́ nền
nông nghiệp VN chưa phát triển được công nghiệp
gia công chế biến là làm tăng thêm giá trị gia
tăng. [28]
Chính v́ thế đời sống
của mấy chục triệu nông dân tiếp tục trong
cảnh đói nghèo, ngay cả ở Đồng bằng Cửu
long, vựa thóc cả nước. Họ dẫn chứng,
một gia đ́nh nông dân hai vợ chồng và hai con mức
thu nhập từ 8 công ruộng ba vụ mỗi năm
được tổng cộng 40 triệu đồng. Nếu
chia theo đầu người th́ mỗi người chỉ
được 10 triệu đồng/năm, tức trung
b́nh chỉ được 840.000đ/tháng, tương
đương với 40 USD/tháng. Trong khi đó mức thu nhập
đầu người b́nh quân năm 2013 ở VN là 1.960
USD, tức khoảng 150 USD/tháng.[29] Như thế mức chênh lệch
giầu nghèo giữa thành thị và thôn quê rất lớn.
Nh́n tổng thể về kết
quả 30 năm gọi là “đổi mới” xuyên qua 6
ĐH và bao nhiêu HNTU và các nghị quyết về công nghiệp
hóa và hiện đại hóa nông nghiệp, nông dân và nông thôn,
Đỗ Hoài Nam, một nhà khoa bảng hàng đầu XHCN
đă từng đóng góp ư kiến cho BCT và BBT trong nhiều
nhiệm ḱ đă phải nh́n nhận t́nh trạng dẫm
chân tại chỗ:
“Sự phát triển của nông
nghiệp chủ yếu vẫn
phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện tự
nhiên, thời tiết và phương thức canh tác truyền
thống, dựa vào đất đai và lao động thủ
công và vẫn nặng về sản xuất lúa gạo phẩm
chất thấp, chưa chịu tác động mạnh mẽ
của công nghiệp, công nghệ và dịch vụ, nhất
là công nghệ cao. Lao động trong nông nghiệp vẫn c̣n gần 50% lao động
toàn xă hội, trong đó trên 90% là chưa qua đào tạo
và dân số sống ở nông thôn vẫn c̣n khoảng 70%.” [30]
Tại QH ngày 22.10.15 bộ
trưởng Kế hoạch&đầu tư Bùi Quang
Vinh cho biết: “Nhìn lại bao nhiêu năm, nông
nghiệp bây giờ vẫn còn tình trạng con
trâu đi trước cái cày theo sau. Ruộng
của chúng ta chia manh mún, bé tí, từ
máy bay nhìn xuống, ruộng, kể cả
ở đồng bằng sông Cửu Long, chia
nát bét, ô ruộng bé tí bằng căn
nhà này thôi. Ngày xưa ruộng thẳng
cánh cò bay thì bây giờ nó đã
phân đất cho hộ gia đình tự
cứu lấy mình trong giai đoạn
trước, bây giờ nó đang cản
trở lại nền sản xuất
lớn…Một cân ngô và một cân đậu
tương ở VN đắt gấp ba lần so
với Mỹ sản xuất. Cánh đồng
của họ thẳng cánh cò bay, một công lao
động bằng máy móc bằng 1.000
người VN, nên giá thành ngô của họ
chỉ bằng một phần ba giá thành ngô VN.
Cho nên họ có sức cạnh tranh.”[31] Các điều
kiện vô cùng bất lợi này đă dẫn tới
năng suất lao động ở VN trong mọi lănh vực,
kể cả trong nông nghiệp rất thấp. Theo
Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), năm
2013 năng suất lao động của VN thuộc nhóm thấp
nhất châu Á-Thái b́nh dương; thấp hơn Singapore 15 lần,
Nhật 11 lần, Nam hàn 10 lần; chỉ bằng 1/5 Mă lai,
2/5 Thái lan.[32]
Tại “Hội nghị trực
tuyến toàn quốc tổng kết 10 năm thực hiện
Nghị quyết Trung ương 7 khóa X về chiến lược
tam nông” ngày 27.11.18 chính Nguyễn Xuân Phúc đă xác nhận kết
quả trên 30 năm trong chính sách tam nông là thất bại
trong mọi lănh vực, thua cả Thái lan và Campuchia:
“Việc áp dụng tiến bộ khoa học trong nông nghiệp
c̣n yếu, giá thành sản phẩm cao, chủ yếu là xuất
thô, chưa qua chế biến, chưa đột phá trong
nâng cao giá trị gia tăng; cơ cấu sản xuất
c̣n manh mún, tốc độ chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông thôn c̣n chậm, tỷ lệ lao động
chưa qua đào tạo c̣n nhiều, việc xây dựng
thương hiệu nông nghiệp c̣n yếu kém...” [33] Mức đầu tư khoa học trong
nông nghiệp ở VN chỉ bằng 1/10 Thái lan
và 1/7 Phi luật tân. Nếu so với Nam Hàn th́ con số này
chỉ bằng 1/600.[34]
Mặc dầu vậy Nguyễn
Xuân Phúc không dám nh́n thẳng sự thực về sự bỏ
rơi nông dân và nông thôn trong suốt trên 30 năm “đổi
mới” của những người cầm đầu chế
độ toàn trị. Trong Hội nghị trên ông Phúc lại
trút trách nhiệm là nông dân ỷ lại: “Chúng ta đang nói tập
trung làm nông nghiệp, nông thôn mà nông dân chúng ta có tinh thần ỷ
lại th́ không bao giờ thành công!” [35]
Nguyên nhân và hiểm họa
Sau 30 năm đổi mới,
nhưng t́nh h́nh nông nghiệp và đời sống mấy
chục triệu nông dân vẫn ở t́nh trạng rất lạc
hậu và đói nghèo. Nhiều chuyên viên, trong đó có cả
những cán bộ cao cấp, đă dẫn chứng và cắt
nghĩa, như tŕnh bày ở trên, về các nguyên nhân dẫn
tới t́nh h́nh rất bi đát hiện nay cho 70% dân số.
Trong đó tổng hợp lại nổi bật hai nguyên
nhân căn bản.
Nguyên nhân hàng đầu rất
quan trọng khiến bao nhiều triệu nông dân triền
miên rơi vào t́nh trạng “được mùa mất giá” và
vẫn phải lao động theo cách con trâu đi trước
cái cày đi sau, v́ chính sách vô trách nhiệm của chế
độ toàn trị, nhắm mắt rập khuôn theo kiểu
DNNN trong nông nghiệp. Việc chế độ cho thành
lập các Tổng công ti lương thực I và II và Hiệp hội Lương
thực (VFA) chính là cách độc quyền trong nông, lâm và thủy
sản. Các DNNN này gần như độc quyền trong việc
định giá thóc gạo và thường cấu kết với
các thương lái để ép giá nông dân phải bán nông sản
theo giá bất lợi.[36] Chế
độ toàn trị không tin vào nông dân và không sáng suốt nhận
ra được tầm quan trọng của nông nghiệp
VN trong việc phát triển đất nước, nên
đă không tạo cho giới nông dân những điều kiện
và cơ hội cần thiết để tự canh tân sản
suất, tự tổ chức những cơ sở thiết
yếu trong các khâu canh tác, chế biến và t́m thị
trường để các nông sản VN có thương hiệu
tốt, khả năng cạnh tranh cao, bán được
giá trên thị trường quốc tế….
Các Tổng công ti lương thực
nhà nước được độc quyền và
được ưu đăi nên chỉ làm việc theo tinh thần
công chức, sáng xách ô đi tối xách về, không tha thiết
tới quyền lợi của mấy chục triệu nông
dân…Không những thế c̣n thỏa hiệp với nhau và với
các đại quan đỏ để tham nhũng và bóc lột
nông dân! Đây là thái độ khinh thường nông dân và bỏ
rơi nông thôn của nhóm cầm đầu toàn trị trong
suốt mấy thập kỉ vừa qua! Chính v́ thế cho
tới nay mấy chục triệu nông dân vẫn bị
nghèo đói và nông nghiệp không ngóc đầu lên được!
Một nguyên nhân quan trọng khác
khiến nông nghiệp VN vẫn lạc hậu và nông dân vẫn
phải chịu cảnh đói nghèo là do trước sau
đảng vẫn ngang ngược coi đất đai
thuộc công hữu, vẫn giáo điều nhắm mắt
theo ư thức hệ Marx-Lenin. Chính từ khi Nguyễn Phú Trọng
làm TBT đă cố t́nh ngăn cản và chống lại cả
quyết định của ĐH 11 đ̣i sửa lại
Luật Đất đai cho phù hợp với quyền lợi
của nhân dân. Theo Tổng thanh tra CP th́ có đến trên
70% các vụ khiếu kiện là về đất đai.[37] Ở
nông thôn nông dân vẫn phải thuê ruộng đất của
nhà nước, đại đa số ruộng đất
bị chia cắt ra rất nhỏ và không có những biện
pháp khuyến khích nông dân canh tác chung cùng có lợi. Nên không thể
sử dụng các máy móc nông nghiệp hiện đại từ
các khâu làm đất, cấy hạt giống, phân bón, trừ
sâu tới gặt hái… Phần lớn các phương tiện
canh tác cũ đă lạc hậu vẫn được sử
dụng. Đây là lí do khiến năng suất nông nghiệp
thấp và dẫn tới đời sống vẫn đói
nghèo cùa bao nhiêu triệu nông dân chiếm tới trên 2/3 dân số
VN. Mặc dù nông dân VN rất siêng năng và cần cù!
Tóm lại, cuộc sống
đói nghèo của nông dân VN suốt gần 70 năm dưới
chế độ toàn trị bắt nguồn từ một
nguyên nhân căn bản là, thực hành chủ thuyết
Marx-Lenin với chính sách coi ruộng đất là thuộc
độc quyền của Đảng. Tức là trong thực
tế ĐCSVN đă trở thành tên địa chủ độc
nhất trên toàn quốc; nó tái lập biện pháp phát canh thu
tô của địa chủ trước đây. Chỉ có
điều khác là, trước đây địa chủ cho
nông dân thuê ruộng đất, nhưng phải trả tiền
thuê ruộng đất cho địa chủ. Nay th́ ĐCS
đóng vai tṛ này của địa
chủ, nhưng với những chính sách tham lam và độc
ác hơn, tuy rằng vẫn hô lớn chống địa
chủ bóc lột!
***
Ngoài thái độ và chính
sách khinh nông của nhà cầm quyền, cũng như sự
thiếu năng lực của cán bộ, hiện nay nông
nghiệp VN c̣n đứng trước nguy cơ của biến
đổi khí hậu trên toàn cầu do những hậu quả
của CO2, đặc biệt là Đồng bằng Cửu
long, vựa lúa nuôi dân cả nước. “Bát cơm vàng” đang có nguy cơ biến
mất. Khu vực này bao gồm 13 tỉnh, với 12,3 % diện tích và 20% dân số, đóng góp
tới 27% GDP cả nước. Hai tỉnh Cà mâu và Kiên giang
là khu đất thấp hơn cả mức nước biển.
Trong mùa mưa nếu thủy triều cao khoảng một
mét th́ có nguy cơ đồng ruộng bị ch́m trong nước
mặn, không thể canh tác. Nạn sụt lún sẽ càng gia
tăng. Trong khi ấy từ trước tới nay sông Cửu
long là nguồn cung cấp không chỉ hải sản, mà c̣n
đem phù sa làm ph́ nhiêu đồng ruộng. Nhưng hiện
nay TQ đă xây nhiều đập thủy điện ở
thượng nguồn sông Cửu long, khiến cho lưu lượng
nước bị giảm.
Theo dự báo của Cơ
quan Phát triển Liên hiệp quốc (UNDP) và nhiều chuyên
viên quốc tế, với t́nh h́nh gia tăng nhiệt độ
trên thế giới tiếp tục như hiện nay th́ tới
cuối thế kỉ này nhiệt độ ở Đồng
bằng Cửu long có thể tăng thêm 1,3-2,8°C, mưa sẽ
tăng 4-8%, nước biển dâng từ 66 cm tới 99cm.
Nếu nước biển dâng cao thêm 1m có thể làm cho 39%
diện tích Đồng bằng Cửu long bị ngập,
35% dân số bị ảnh hưởng. Đây là khu vực
bị ảnh hưởng nặng nề nhất do biến
đổi khí hậu. Nếu t́nh h́nh này diễn ra sẽ
làm 22 triệu người mất nhà cửa và thiệt hại
lên tới 10% GDP.[38]
III. Đầu tư nước ngoài:
Khinh trong trọng ngoài,
dẫn tới kinh tế
lệ thuộc FDI và công nghiệp nội
bị bỏ rơi
Sau khi HK và các nước
Tây phương hủy bỏ chính sách cấm vận kinh tế
và thương mại với VN từ đầu thập
niên 90, chế độ toàn trị CSVN đứng trước
hoàn cảnh rất ngặt nghèo. Khi ấy Liên xô đă sụp
đổ, tức là HN mất toàn bộ khu vực „thị
trường truyền thống“ suốt mấy chục
năm từng là chủ lực giao thương và viện
trợ cho VN. Trong khi ấy tái lập bang giao với TQ mới
bắt đầu và chưa có ǵ vững chắc. Trong hoàn cảnh
đó, muốn tái thiết đất nước chỉ
c̣n cách mở cửa buôn bán với Tây phương, đặc
biệt với cựu thù Mĩ. Đây là giai đoạn chủ
trương làm bạn với tất cả! Hà nội
đưa ra mục tiêu kinh tế đối ngoại là t́m
cách thu hút mời các công ti nước ngoài đầu tư
trực tiếp vào VN xây dựng các xí nghiệp để sản
xuất các sản phẩm xuất khẩu (Foreign Direct
Investment -FDI). Họ cho rằng,
đây là chính sách khôn ngoan „đi tắt đón đầu“, như một đ̣n bẩy để
đưa nền kinh tế vốn rất tụt hậu của
VN có thể chuyển nhanh sang phát triển canh tân đất
nước, nhờ vốn và kĩ thuật hiện đại
của các công ti này.
Về lí thuyết, chủ
trương này bao gồm một số mục tiêu chính:
-
Tạo công ăn việc
làm và nâng cao tŕnh độ chuyên môn cho công nhân VN
-
FDI hợp tác với các
doanh nghiệp VN, chuyển giao kĩ thuật công nghiệp
hiện đại và giúp công nghiệp VN phát triển kiến
thức quản trị
-
Thu được các nguồn
ngoại tệ mạnh để làm vốn cho phát triển
kinh tế
-
Các sản phẩm của
FDI xuất cảng sẽ mang lại số thuế lớn
cho ngân sách quốc gia
-
Các FDI sẽ sử dụng
các kĩ thuật hiện đại, nên tránh làm băi rác công
nghệ
Tuy Luật đầu
tư cho nước ngoài đầu tiên ra đời từ
1988 (QH thông qua 29.12.1987)[39],
nhưng phải đợi tới giữa thập niên 90
sau khi VN và HK b́nh thường hóa quan hệ ngoại giao th́
các các công ti FDI mới dồn dập vào làm ăn ở VN.[40]
Điều
27 Luật đầu tư cho
doanh nghiệp nước ngoài năm 2005 qui định các
lănh vực được ưu đăi, trong đó Khoản
3 ghi rơ “Sử dụng công nghệ cao, kĩ thuật hiện
đại; bảo vệ môi trường sinh thái..” [41] Tuy nhiên phải
đợi tới sau khi VN gia nhập WTO vào cuối năm
2006 thời Nguyễn Tấn Dũng làm Thủ tướng
(TT) th́ các công ti lớn quốc tế mới đổ hàng
tỉ USD đầu tư vào VN. Chỉ riêng 9 tháng đầu 2008 vốn
đăng kí đầu tư nước ngoài vào VN đă
lên tới 57 tỉ USD. Trong đó có 8 dự án có vốn
đăng kí trên 1 tỉ USD/dự án.[42]
Tới cuối 2012 có tất cả 14.364 dự án đang hoạt
động với tổng số vốn đăng kí lên tới
212,846 tỉ USD. Trong đó chủ yếu là các công ti FDI với
100% vốn nước ngoài chiếm tới 79,61% tổng số
dự án và 66,51% tổng vốn đăng kí; số công ti
FDI liên doanh với tư nhân VN và DNNN chỉ chiếm 17,86% tổng
số dự án và 25,92% tổng vốn đăng kí.
Trong dịp tổng kết
30 năm chính sách đối với FDI (1988-2018) một số
cơ quan và chuyên viên đă phân tích các hoạt động và
kết quả của FDI đối với kinh tế VN. Thứ
trưởng bộ Kế hoạch và Đầu tư Vũ
Đại Thắng cho biết, VN „đă thu hút được
trên 25.000 dự án FDI với tổng vốn đăng kư
đạt 320 tỉ đô la Mỹ“.[43]
Theo TS Vũ Thành Tự Anh, Đại học Fulbright VN,
đầu tư trực tiếp nước ngoài trong ba thập
niên qua „đang tạo ra khoảng 70% giá trị xuất khẩu,
50% giá trị sản xuất công nghiệp và 20% GDP của cả
nước.“[44] Trong khi FDI chiếm trên 2/3 tổng
xuất khẩu và ½ tổng giá trị sản xuất công
nghiệp của VN th́ “hệ số
chuyển giao công nghệ” của các doanh nghiệp FDI với
các doanh nghiệp nội lại “thấp nhất trong khu vực
ASEAN, thua cả Lào và Campuchia”. Chính sự kiện này đă được
Chủ tịch Pḥng Thương mại và Công nghiệp Việt
Nam (VCCI) ông Vũ Tiến Lộc xác nhận trong cuộc
Hội thảo ở HN ngày 30.
8.18. [45]
Nói một cách khác, vai tṛ của
các doanh nghiệp FDI đang đóng vai tṛ then chốt có tính
cách quyết định cho tương lai của kinh tế
VN, nhưng hầu như không có chuyển giao công nghệ với
các doanh nhiệp tư nhân VN. Nguy hiểm nữa là, rất
nhiều xí nghiệp FDI đă sử dụng các máy móc cũ
và có tŕnh độ công nghiệp rất thấp, ngày càng
đe dọa môi trường sinh thái của VN, điển
h́nh như thảm họa cá chết hàng loạt phủ trắng
ven biển các tỉnh miền Trung do đại công ti
Formosa gây ra năm 2016. Điều này hoàn toàn trái ngược
với các mục tiêu đă đưa ra của nhà cầm
quyền toàn trị VN xuyên qua các Luật đầu tư
cho các doanh nghiệp nước ngoài tại VN trong hơn 30
năm qua.
Cũng theo báo cáo vào đầu
năm 2018 của VCCI, “mỗi năm có khoảng từ
40-50% doanh nghiệp FDI kê khai lỗ, trong đó, có rất nhiều
doanh nghiệp lỗ liên tục trong nhiều năm, thậm
chí có doanh nghiệp lỗ lũy kế đến mức
âm vốn chủ sở hữu, nhưng vẫn tiếp tục
hoạt động b́nh thường, kể cả việc
mở rộng quy mô kinh doanh. Một số địa
phương thu hút nhiều doanh nghiệp FDI như thành phố
HCM, B́nh Dương, tỉ lệ doanh nghiệp FDI kê khai lỗ
lên đến 50-60%, trong đó có nhiều doanh nghiệp kê
khai lỗ trong nhiều năm.“[46] T́nh h́nh rất
lạ lùng như thế phải hiểu theo nhiều mặt.
Đó là: 1. Những đóng góp thuế thực sự của
FDI vào ngân sách quốc gia ở mức rất thấp. 2. Mức
chuyển giao kĩ thuật công nghệ cho các doanh nghiệp
nội địa rất thấp. 3. Sử dụng các máy
móc cũ nên đang tạo nguy hại về môi trường.
Mặc dầu t́nh h́nh phát
triển của các công ti FDI đi ngược lại với
các chủ chương và chính sách của chế độ
toàn trị trong việc thu hút đầu
tư của nước ngoài, vậy tại sao họ vẫn
được mở rộng làm ăn ở VN? Những
nghịch lí này của FDI đang diễn ra ở VN trong suốt
mấy thập niên qua. Tại sao các nghịch lí ngày không
được cải thiện, ngược lại c̣n
đang mở rộng từ thời Nguyễn Tấn Dũng
và đang gia tăng từ khi Nguyễn Xuân Phúc làm TT? Những
người cầm đầu chế độ toàn trị
có làm chủ động trong các chính sách đối với
FDI, hay đă bị lệ thuộc và bị sai khiến bởi
các nhóm lợi ích cấu kết với các công ti FDI từ
ngay trong giai đoạn hoạch định chính sách?
Các
công ti FDI tại VN phân loại theo h́nh thức đầu
tư (2012)
TT |
H́nh thức đầu tư |
Số dự án |
Tổng vốn đăng kí (triệu
USD) |
Tỉ trọng
(%) Số dự án Tổng vốn
đăng kí |
1 |
100% vốn nước ngoài |
11.370 |
141.582,33 |
79,16
66,62 |
2 |
Liên doanh |
2.566 |
55.162,65 |
17,86
25,92 |
3 |
Hợp đồng BOT, BT, BTO |
14 |
5.857,32 |
0,10 2,75 |
4 |
Hợp đồng hợp tác kinh doanh |
218 |
5.469,09 |
1,52 2,57 |
5 |
Công ti cổ phần |
195 |
4.677,21 |
1,36 2,20 |
6 |
Công ti mẹ con |
1 |
98,01 |
0,01 0,05 |
|
Tổng số |
14.364 |
212.846,61 |
100 100 |
Nguồn: Cục đầu
tư nước ngoài, 2013. Xuất xứ: NCKT 4.2013,tr. 47
Nhà nước CS ưu đăi tối
đa cho các công ti FDI về nhiều mặt, như đất
đai lập công xưởng, được ưu đăi
thuế rất thấp các năm đầu, lương
công nhân thấp; nhập khẩu máy móc, mua sắm trang thiết
bị và hàng từ công ti mẹ hưởng chế độ
giảm thuế đặc biệt, giành ưu đăi cho họ
chuyển lợi nhuận về công ti mẹ. Ngoài ra để
thu hút FDI, mỗi địa phương c̣n được
quyền đưa ra các biện pháp ưu đăi cao hơn;
ngoài việc miễn giảm tiền thuế đất, tiền
sử dụng đất lên tới 50% theo NQ 62 của CP,
c̣n gia hạn thêm thời gian miễn giảm thuế từ
3-6 năm.[47] Chế độ toàn trị
cho lập nhiều Khu chế suất và Khu công nghiệp giành riêng cho các
công ti FDI. Các công ti FDI tập trung hoạt động trong
lănh vực sản xuất hàng hóa xuất khẩu, như giầy
dép, quần áo, linh kiện điện tử. Khi chương
tŕnh mở rộng các đô thị được ban hành,
nhiều công ti FDI đă t́m cách
hợp tác với các DNNN để lợi dụng chính sách
ưu đăi của NHNN trong việc vay với lăi suất rất
thấp những số tiền rất lớn lên tới
135.000 tỉ đồng (>8,4 tỉ USD) vào khu vực bất
động sản. Như các dự án Nam Thăng long-Ciputra,
Hồ Tràm của một công ti Canada (4,2 tỉ USD), Starbay của
British VirginIslands (1,65 tỉ USD) và Khu công nghiệp Thủ
thiêm của Singapor (1,2 tỉ USD) khi ấy. Họ c̣n lợi dụng
sự dễ dăi và khuyến khích của chính quyền trung
ương và các địa phương, nên nhiều năm
-nhất là thời Nguyễn Tấn Dũng- đă ồ ạt
lập 78 sân golf với tổng số vốn đăng kí
là 13,3 tỉ USD và chiếm một
diện tích 26.170 ha ở 39 thành phố/tỉnh. Ngoài ra cũng
trong thời gian này c̣n có 66 dự án khác xây sân golf.
Chính TCCS đă đăng
bài của hai chuyên gia kinh tế của Cơ quan Phát triển
của LHQ ở VN tường thuật cách biến đất
nông nghiệp thành các sân golf làm nơi giải trí của các
nhà tư bản nước ngoài và các quan đỏ. Theo
qui định của Nhà nước th́ tiền bồi
thường cho đất nông nghiệp rất thấp.
Không những thế đất xây sân golf c̣n được
coi là dùng vào thể thao, “nên được hưởng mức
thuế đất ưu đăi”. V́ thế nhiều công ti
FDI đă lợi dụng dùng một phần đất sân
golf để xây “khách sạn, nhà hàng và giải trí“. Họ
đầu cơ xây các sân golf, khách sạn và các khu giải
trí với các ưu đăi cao nhất để hi vọng
có thể thu hồi vốn và có lời nhanh. Trong việc
xây dựng các khu vực bất động sản, nhiều
công ti FDI đă dùng uy tín và mánh lới là công ti ngoại quốc,
có quan hệ tốt với các quan đỏ có quyền lực,
nên nhiều khi họ chỉ cần xây móng xong là đă rao
bán. Người mua (thường là cán bộ có máu mặt)
sẵn sàng bỏ ra số tiền lớn đặt cọc
trước. Như vậy là các công ti FDI đă dùng tiền
của người mua nhà để xây nhà, họ chỉ phải
bỏ ra số vốn rất ít nhưng hưởng lợi
nhuận rất cao. Có dư luận cho rằng, dự
án Ciputra và Keangnam (Đại hàn) thuộc loại đầu cơ như vậy.[48] Đây chính là
cách làm ăn móc ngoặc, làm giầu nhanh bất chính giữa
các quan đỏ với nhiều công ti nước ngoài.
Một hiện tượng rất
phổ biến là, nhiều doanh nghiệp FDI đă khai lỗ
nhiều năm liên tiếp, trong khi đó họ vẫn gia
tăng đầu tư tại VN. Như ở Khu chế
suất tại B́nh dương số doanh nghiệp FDI khai
lỗ năm 2010 là 754/1490, chiếm tỉ trọng 50,6%;
trong đó có tới 200 doanh nghiệp mức lỗ cao
hơn cả vốn. Tại Sài g̣n và Đồng nai số
doanh nghiệp FDI khai lỗ cũng lên tới 60% và 52,2%. Tại
Lâm đồng số doanh nghiệp FDI khai lỗ là 104/111.
Mánh lới phổ thông thứ hai của các công ti FDI là khai
giá các tài sản như máy móc, thiết bị, nguyên liệu,
dịch vụ, phí bản quyền… cao hơn nhiều so với
giá thực tế. Mặc dầu đa số máy móc chuyển
sang VN đều thuộc loại tŕnh độ kĩ thuật
cũ và gây ô nhiễm cao. Đây là thuộc vào các vốn
đầu tư, từ đó họ có lợi thế để
tính thuế. Họ c̣n khai vay tiền các ngân hàng với lăi
suất rất cao, hoặc các chi phí cho dịch vụ
như quản lí, quảng cáo, tiếp thị, đào tạo,
thuê chuyên gia. Đây là những chi phí đầu vào. Từ
đó vào cuối mỗi năm họ có thể khai lỗ,
hoặc lời rất ít để được miễn
thuế hoặc chỉ đóng thuế rất ít. Năm
2009 có 760/1.358 (56%) công ti FDI khai lỗ. Các thủ đoạn
này làm ngân sách nhà nước thất thu hàng năm rất lớn.[49]
Một hiện tượng phổ
thông khác là, đại đa số các công ti nước
ngoài hoạt động tại VN theo h́nh thức 100%, không
thích liên kết với các doanh nghiệp VN v́ nhiều lí do,
từ bí mật nghề nghiệp, khác biệt ngôn ngữ tới
sự phân hóa quá nhỏ của các doanh nghiệp tư VN.
Đặc biệt nhất là, nhà cầm quyền CS rất
cần ngoại tệ qua sự đầu tư của
các công ti FDI nên không dám có những chính sách rơ ràng -như TQ và
một số nước Á châu- để các công ti FDI phải tích cực hợp
tác với doanh nghiệp tư nhân VN. V́ thế các doanh nhân,
doanh nghiệp VN và công nhân mất các cơ hội tốt
để học tập kĩ thuật, cách quản trị
và điều hành các hăng xưởng theo tŕnh độ mới.
Không chỉ chèn ép giới kinh
doanh tư nhân VN, các công ti FDI c̣n t́m cách bóc lột hàng triệu
công nhân bằng nhiều thủ đoạn tinh vi, với sự
làm ngơ hoặc tiếp tay nhà cầm quyền CS.
Tính tới năm 2012 có 283 Khu công nghiệp trên 58 tỉnh/thành
phố, chiếm diện tích 76.000 hecta. Trong đó miền
Đông Nam Việt nhiều nhất với 88 khu công nghiệp
( 31,1%), Đồng bằng sông Hồng 24,7%, Đồng bằng
Cửu long 17,7%, Miền Trung 15,5%. Chia theo tỉnh/thành phố
th́ Đồng nai có 30 Khu công nghiệp, B́nh dương 25,
Sài g̣n 19, Hà nội 11…Riêng Đồng bằng Cửu long có
51 Khu công nghiệp và 200 cụm công nghiệp chiếm diện
tích 25.000ha, nhưng mới sử dụng khoảng 20%. Nhiều
Khu công nghiệp bị qui hoạch treo phí phạm đất
canh tác.[50] Số lao động
làm trong các Khu công nghiệp tăng rất nhanh. 1995 mới
có 50.000 công nhân, năm 2000 đă tăng lên 201.000, năm 2007
lên tới 1,04 triệu và 1,765 triệu công nhân vào năm
2011. B́nh quân số công nhân làm trong các khu công nghiệp gia
tăng hàng năm từ 10-15%.
Trong khi số công nhân gia
tăng rất nhanh th́ Nhà nước CS không có chính sách để
các doanh nghiệp FDI có chương tŕnh xây dựng cư xá
cho công nhân. 80% công nhân phải thuê pḥng trọ ở bên ngoài.
Nếu tính theo tỉ lệ và diện tích các pḥng trọ
th́ thật khủng khiếp: Số công nhân phải sống
trong pḥng rộng dưới 3m² chiếm tới 19%, 3-5m²
(21,4%), 5-7 m² (10,6%),8-10m² (22%), 11-20m² (22,4%); số công nhân có
pḥng trọ trên 20m² chỉ có 5,9%. Rất nhiều trường
hợp 3 công nhân phải thuê 1 pḥng 10-12m², giá thuê
250.000-300.000đ/tháng (2012). Không chỉ phải ở trong
các pḥng trọ chật chội, thiếu tiện nghi, thiếu
vệ sinh như các chuồng gà; c̣n thiếu các nhà trẻ,
trường học, trạm y tế, chợ, siêu thị,
giải trí…Đấy là chưa kể chính sách „hộ khẩu“
đă khiến cho con cái công nhân không được thu nhận
vào các trường học. Điều này ảnh hưởng
vô cùng bất lợi cho hàng trăm ngàn thiếu niên.[51]
Cuộc sống
lam lũ của hàng triệu công nhân, đa số là phụ
nữ và con thơ, trong các khu công nghiệp giành cho các công ti
FDI là những h́nh ảnh sống động nhất và tồi
tệ nhất như thời Cách mạng Công nghiêp hai thế
kỉ trước, với cảnh bóc lột của thời
ḱ tư bản rừng rú. Trong đó có sự cấu kết
công khai giữa vua chúa cầm quyền và bọn tư bản
bóc lột. Nhưng rất oái ăm và lạ lùng là, t́nh trạng
vô nhân đạo này lại tái diễn vào đầu Thế
kỉ 21 tại VN trong khuôn khổ chế độ XHCN;
trong đó những người
cầm đầu luôn luôn vỗ ngực, đó là chế
độ bảo vệ người lao động, bảo
vệ quyền làm người!
Không những thế
nhiều công ti FDI vi phạm qui luật lao động, thậm
chí vi phạm cả luật h́nh sự đối với
công nhân VN. Như ngược đăi công nhân, làm tới 12 giờ/ngày,
đánh đập công nhân. Nhiều công ti Nam hàn đă vi phạm.
Các vụ đ́nh công diễn ra khá phổ biến trong các
công ti của Đài loan và Nam hàn. Năm 2010 xẩy ra 62 vụ
đ́nh công ở Sài g̣n, trong đó 37 vụ trong các công ti
FDI. Trong số này 21 vụ ở các công ti Nam
hàn.[52] Số các
công ti của Nam Hàn, Đài loan, Hồng kông và Nhật chiếm
một tỉ lớn của FDI hoạt động ở
VN. Điều này có thể hiểu, các nước này không
chỉ là láng giềng mà c̣n có nền văn hoá tương
đồng với VN, hiểu rơ tâm lí và tập quán của
người Việt, đặc biệt một số các
nước này không coi trọng nhân quyền và quyền lợi
của công nhân ngay ở trong nước họ!
Một h́nh ảnh “thân dân”
rất kịch cỡm đă được TT Nguyễn
Xuân Phúc dàn cảnh trong chuyến thăm công nhân tại một
công ti FDI ở Đồng nai vào cuối tháng 10.2017. Đây
cũng là công ti mà hơn một năm trước, khi mới
nhận chức TT ông Phúc đă thăm. Nay ông trở lại
để xem có tiến bộ hay không. Tại đây TT
đă hỏi công nhân về t́nh h́nh lao động và cuộc
sống hàng ngày của họ. Khi tới bàn ăn của
công nhân ông hỏi: “Bữa ăn từ 16.000-23.000 đồng
có đảm bảo chất lượng không? Sau giờ
làm việc, công nhân có thời gian để sinh hoạt
văn hóa, thể thao hay không? Mức lương và cuộc
sống có đảm bảo không?”[53] Tại sao Nguyễn Xuân Phúc không tổ
chức một cuộc thăm bất ngờ ở một
công ti FDI khác để biết các bữa ăn trưa thịt
ôi canh ủng chỉ với giá hai ba ngàn đồng; hay
đi thăm các pḥng trọ như ổ chuồng gà giành
cho công nhân?
Theo bộ Kế hoạch
và đầu tư, tới cuối 2017 có 128 quốc gia và
vùng lănh thổ đă đầu tư vào Việt Nam. Lần
đầu tiên Nam Hàn đang dẫn đầu với tổng
vốn đăng kư 57,1 tỷ USD (chiếm gần 18,2%), thứ
hai là Nhật bản với 46,3 tỷ USD, tiếp đến
là Singapore và Đài loan.[54]
Tờ Quân đội Nhân
dân (QĐND) cũng cho biết, hiện các công ti FDI đang
sử dụng khoảng 30% lực lượng lao động
công nghiệp.“[55] Nhưng mặt khác, khu vực FDI
đang bộc lộ những mặt trái gay gắt; như
gây ô nhiễm môi trường rất nghiêm trọng, nạn
chuyển giá bất hợp
pháp, sử dụng công nghệ lạc hậu. BCT
đưa ra mục tiêu là, dùng FDI để lan tỏa công
nghiệp hiện đại cho kinh tế tư nhân nội
địa, nhưng thực tế đă không diễn ra
như vậy. Theo điều tra của Pḥng Thương mại
và Công nghiệp VN (VCCI), các công ti FDI „chỉ mua khoảng
26,6% thiết bị, đầu vào từ DN Việt Nam, c̣n
lại là nhập khẩu và nhập từ công ty mẹ.
Điều này chứng tỏ, DN Việt Nam đang
được hưởng lợi rất ít từ hiệu
ứng lan tỏa do ḍng vốn FDI mang lại qua quá tŕnh chuyển
giao công nghệ, chuyển giao kiến thức và nâng cao
năng suất”. Trong báo cáo “Việt
Nam tăng cường năng lực cạnh tranh và liên kết
của DN vừa và nhỏ (DNVVN)-Bài học kinh nghiệm
trong nước và quốc tế” Nhóm nghiên cứu của
Ngân hàng Thế giới cũng xác nhận, „các DNVVN của
Việt Nam chủ yếu là nhà cung cấp cấp ba (gián tiếp),
được mô tả như là ngành sản xuất các
nguyên liệu đầu vào, nguyên liệu đơn giản
và ít giá trị gia tăng.“[56]
***
Nếu so sánh giữa chủ
trương (lí thuyết) và kết quả thực tiễn
trong việc thực hiện chính sách FDI gần ba thập kỉ
qua của chế độ toàn trị CSVN th́ càng thấy
rơ sự khác biệt rất rơ rệt như trắng với
đen giữa mục tiêu và kết quả:
- Chủ trương dùng FDI để thúc đẩy
công nghiệp VN phát triển. Nhưng oái oăm đại
đa số các FDI chỉ làm ăn riêng, cho nên đến
nay nhiều doanh nghiệp tư VN đă không làm được
cái đinh ốc!
- Chủ trương dùng
FDI để VN có “công nghiệp xanh”. Nhưng nay nhiều
FDI đang biến VN thành băi rác thải công nghiệp độc
hại, không những thế họ chỉ chuyển vào VN
các máy móc có tŕnh độ kĩ thuật rất thấp.
- Chủ trương bảo
vệ quyền lợi lao động của công nhân trong
các công ti FDI, nhưng thực tế hàng triệu công nhân VN
đang bị bóc lột và bạc đăi!
Tự vỗ ngực là những
người lănh đạo CS giầu kinh nghiệm, biết
rơ tâm đen của các giới tư bản, nhưng tại
sao họ lại trải thảm đỏ mời gọi
FDI, thế rồi bị sỏ mũi? Họ nghĩ rằng
có thể tương kế tựu kế? Nhưng nếu
xét qua nhiều giai đoạn tham gia của FDI ở VN th́
cho thấy, họ bị chạy theo, rất bị động
chứ không chủ động. Những sự cố về
ô nhiễm môi trường đă xẩy ra và các hậu quả
vô cùng tai hại của nó, cũng như lương bổng
bị bóc lột và đời sống đói rách của
hàng triệu công nhân cho thấy, khi lập kế hoạch mời
FDI họ ở thế bị động, cứu đảng
và cứu ḿnh để nắm quyền nên phải nhắm
mắt làm liều.
Lời xác nhận của
Nguyễn Phú Trọng trong vụ Formosa: “Trước kia chúng ta kêu gọi đầu
tư nhưng không nghĩ đến vấn đề môi
trường, không nghĩ đến đổ rác đi
đâu, nên bây giờ chúng ta phải
trả giá.” (Xem
Chương chín, V). Lời xác nhận trên của
người cầm đầu chế độ toàn trị
không chỉ giới hạn trong lănh vực môi trường,
mà có giá trị cả trong các lănh vực khác, như chờ
đợi FDI chuyển vào VN những công nghệ với kĩ
thuật tiên tiến, hay bảo vệ quyền lợi lao
động của công nhân.
Sự tăng trưởng
về vốn đầu tư vào VN hay kim ngạch xuất
khẩu gia tăng của FDI không đồng nghĩa với
những lợi ích cho VN. Nhiều khi đi ngược lại
các mục đích ban đầu của CSVN: Xuất khẩu
gia tăng nhưng nhập khẩu cũng gia tăng; gia
tăng số lượng công ti FDI nhưng lại giảm
số công ti FDI hợp tác với doanh nghiệp tư VN và
các thiết bị đưa vào VN có tŕnh độ kĩ
thuật thấp, đang biến VN thành nơi tiêu thụ
các máy móc lỗi thời, nguy hiểm nữa là thành băi rác
đầy chất độc công nghiệp. Điều cực
ḱ nguy hiểm nữa là, sự
kiện ngày càng lớn mạnh của FDI dẫn tới
hậu quả, ngày càng ̣i ọp của doanh nghiệp tư
nhân VN và kinh tế VN càng lệ thuộc bên ngoài!
Cuối tháng 11.18 tại cuộc
Hội thảo đánh giá hiệu quả chính sách thu hút và
ưu đăi đầu tư nước ngoài tại Việt
Nam trong các thập niên vừa qua do Viện Nghiên cứu quản
lư kinh tế Trung ương (CIEM) tổ chức, nhiều
chuyên viên đă lên tiếng cảnh báo về những hệ
lụy vô cùng bất lợi trong nhiều lănh vực cả
trước mắt và lâu dài của chủ trương
"quá sính ngoại" của chế độ toàn trị
đối với các công ti FDI. Chuyên viên ngân hàng Phạm Xuân
Ḥe nhận xét, „khối FDI được rất lớn,
c̣n VN chỉ được mấy đồng lương
c̣i cho người lao động. Trong khi ô nhiễm môi
trường không biết phải chi bao nhiêu cho đủ
và người công nhân cũng luôn phải đối mặt
với rủi ro.“ [57]
***
Trước đây cũng như
hiện nay một số nước Âu châu cũng như Á
châu lấy xuất cảng làm trọng tâm. Trong giai đoạn
đầu măi lực nội địa không cao, vốn ít;
nên để tạo điều kiện phát triển nhanh
hơn, các quốc gia này cần vốn của cả bên
ngoài. Nhưng mục tiêu lâu dài vẫn phải lấy nội
lực làm chính. Đây là những suy nghĩ sáng suốt và
thực tế. Bởi v́ hoạt động kinh tế liên
quan trực tiếp tới đồng tiền bát gạo.
Ta không thương ta th́ chẳng ai đoái hoài. Tâm lí chung là
không ai giúp một cách vô công, có đi có lại. Nhưng phải hiểu tâm lí và
động cơ của các nhà tư bản. Đối với
họ, lợi nhuận là tiêu chí giá trị cao nhất,
nơi nào thu hoạch có lời cao, thuế thấp cùng các
ưu đăi khác th́ họ sẽ đổ xô tới; nếu
không c̣n th́ họ lại bỏ đi t́m nơi khác.
Chính tâm lí này của các giới tư bản đă
được cựu Phó TT Đức và cựu Chủ tịch
Đảng Dân chủ Xă hội Đức F. Müntefering mô tả;
ông đă ví giới này như các đàn cào cào, châu chấu,
nơi nào có ăn th́ cả đàn tới, khi hết rồi
th́ cả đàn lại bay đi nơi khác kiếm ăn![58]
Như trước đây ở
Nhật, Đài loan và Đại hàn và hiện nay ở TQ, một
mặt họ khuyến khích tư bản nước ngoài bỏ
vốn vào đầu tư ở nước họ. Xuyên
qua nguyên tắc hợp tác, các FDI được giành một
số ưu đăi nhất định trong hoạt động
kinh doanh, nhưng đồng thời phải thực hiện
nghiêm túc các nghĩa vụ và các thỏa thuận với các
quốc gia này. Trong đó ngoài nhiệm vụ đóng thuế
ṣng phẳng, c̣n phải chuyển giao công nghệ tân tiến
và đào tạo chuyên môn cho người lao động bản
xứ.
Cách vận hành của một
nền kinh tế lấy xuất cảng làm trọng tâm có
đặc điểm là, các công ti FDI dùng công nhân bản xứ
với lương bổng thấp, nhờ đó giá thành
các hàng hóa thấp, nên các sản phẩm này có thể bán chạy
ở nhiều nước công nghiệp. Nhờ thế các
công ti FDI hưởng lợi nhuận rất cao. Trong khi
đó nhà nước sẽ thu ngoại tệ để
tăng mức ngoại hối và thu được thuế
từ các hàng xuất khẩu; nhờ đó ngân sách quốc
gia được gia tăng để có thể đầu
tư và canh tân đất nước tiến tới tự
lập tự cường. Nhưng các mục tiêu và cách thực
hiện đường lối kinh tế này chỉ thành
công trong một số điều kiện nhất định,
ắt có và đủ. Đó là phải có một hệ thống
chính trị tốt, trong đó những người nắm
vận mệnh đất nước phải có tinh thần
trách nhiệm cao, có tầm nh́n sâu rộng; quốc hội,
hệ thống ṭa án phải có thực quyền; các công chức
phải chí công vô tư; có hệ thống báo chí độc
lập và các đoàn thể xă hội dân sự được
tự do hoạt động. Mặt khác phải có các chính
sách khuyến khích và bảo vệ các giới doanh gia và
tư thương nội địa trong việc bỏ vốn
và sáng kiến vào các hoạt động sản suất và
kinh doanh để làm giầu cho chính ḿnh và đất
nước.
Nếu chỉ thích hoàng
nhoáng bề ngoài, thích giả dối; gộp nhập trên 2/3
kim ngạch xuất khẩu hàng năm từ FDI vào
GDP để trưng diện là lợi tức đầu
người ở VN đang tăng nhanh. Nhưng đó chỉ
là giả dối, v́ phần lớn thu nhập của các
công ti FDI lại được chuyển nhanh về công ti
mẹ ở mẫu quốc. Cả phần thuế của
FDI vào ngân sách quốc gia cũng rất thấp; v́ họ
được ưu đăi thuế, trốn thuế bằng
cách khai lỗ, hay chỉ phải trả mức thuế rất
thấp!
Cân nhắc giữa quyền lợi
quốc gia và sự phân công quốc tế cùng có lợi cho
các bên, th́ nếu sự đầu tư của nước
ngoài đem lại những lợi ích thiết thực cho
việc phát triển nhanh và bền vững cho đất
nước, sẽ là một việc rất đáng hoan
nghênh. Không nên có thái độ bài ngoại quá khích, nhất
là trong giai đoạn toàn cầu hóa. Bế quan tỏa cảng
chỉ làm tŕ trệ đất nước thêm. Nhưng mục
tiêu này chỉ có thể thành công, nếu có một chính quyền
có tầm nh́n xa trông rộng, biết cân nhắc ưu và
khuyết điểm của kế hoạch xây dựng
đất nước; có chính sách mở cửa thích hợp,
biết sử dụng vốn tư bản nước
ngoài, công nghệ tân tiến nước ngoài và kiến thức
quản trị và tŕnh độ chuyên môn cao của họ.
Đó là tạo những điều kiện ắt có và
đủ cho việc canh tân VN. Nhưng suốt trên 30
năm qua các điều kiện trên đều không có!
IV. Tư doanh VN bị bạc
đăi và bị chèn ép
Từ trước tới
nay, đặc biệt dưới thời Nguyễn Tấn
Dũng làm TT, các NQ của nhiều ĐH đảng và chính
sách kinh tế của chính phủ đều nhấn mạnh
phát triển nội lực. Nghĩa là về mặt lí thuyết,
các doanh nghiệp VN (DNNN và tư nhân) phải là nồng cốt
cho phát triển kinh tế. Các Luật về Doanh nghiệp
tư nhân 2000 và 2005 qui định về hoạt động
của kinh tế tư nhân trong nước. Nhưng trong thực
tế th́ lại hoàn toàn khác. Trong khi các công ti nước
ngoài FDI ngày càng bung ra chiếm lănh thị trường và các
DNNN được giành ưu đăi trong tín dụng và đất
đai, lại nắm độc quyền nhiều lănh vực
được coi là huyết mạch của nền kinh tế.
C̣n các doanh nghiệp tư nhân nội địa lại không
ngóc đầu lên được, phải chịu đựng
một cổ hai ba tṛng, vừa bị các DNNN chèn ép, lại
bị các công ti FDI cạnh tranh, đồng thời c̣n bị
các quan đỏ móc túi và trấn áp.
Có nhiều con số khác
nhau về doanh nghiệp tư nhân VN từ nhỏ, trung b́nh
đến lớn (tính theo số công nhân và vốn đầu
tư). Theo Cục Quản lí đăng kí kinh doanh của bộ
Kế hoạch và đầu tư, tính tới Quí 1/2014 có tất
cả 789.813 doanh nghiệp tư nhân VN đă đăng kí,
trong đó 296.206 doanh nghiệp đă phải đóng cửa
hoặc phá sản. Riêng từ khi VN gia nhập WTO (2007) số
doanh nghiệp tư nhân gia tăng cao, mỗi năm có trên
50.000 doanh nghiệp được thành lập.[59]
Nhưng đồng thời số doanh nghiệp ngưng hoạt
động hoặc phá sản cũng rất cao. Theo báo cáo
của Pḥng Thương mại và Công nghiệp VN ngày
13.4.16, có đến 428.000 doanh nghiệp tư nhân VN phải
ngừng hoạt động hoặc giải thể trong
giai đoạn 2007-2015, tương
đương với 45,5% tổng số doanh nghiệp
được thành lập kể từ khi có Luật Doanh
nghiệp năm 2000 đến nay. [60]
Xét về qui mô lao động th́
các doanh nghiệp VN ngày càng có khuynh hướng nhỏ
đi. Vào năm 2002 một doanh nghiệp có trung b́nh 74 lao
động, đến 2007 chỉ
c̣n 47 lao động, nhưng tới
2012 lại giảm chỉ c̣n khoảng 32 lao động.
Vào năm 2012 số doanh nghiệp vừa là lớn chỉ
chiếm khoảng 4,3%, doanh nghiệp nhỏ chiếm 29% và
siêu nhỏ chiếm 66,8% (dưới 10 lao động).
Năm 2002 số doanh nghiệp siêu nhỏ chiếm 53,1%
đă tăng lên 66.8% vào năm 2012. T́nh h́nh chung rất đặc
biệt là, trong suốt 10 năm (2002-2011) rất ít doanh nghiệp
nhỏ và siêu nhỏ phát triển thành doanh nghiệp vừa
hoặc lớn. Nhưng ngược lại, tỉ lệ
các doanh nghiệp vừa lại biến thành nhỏ và siêu
nhỏ lại gia tăng. Thành thử nhiều chuyên viên
đă rất chua chát phải nêu câu hỏi, tại sao các
doanh nghiệp tư nhân VN „không lớn lên được“? [61]
Cũng vào giai đoạn
này đă có bài thơ rất chua chát và mỉa mai, v́ sao đất
nước không lớn lên được với tựa
đề „Đất nước ḿnh ngộ
quá phải không anh?“ của Thạc sĩ Trần Thị Lam, một nữ
giáo viên trung học ở Hà Tĩnh, được phổ
biến rất rộng răi và được phổ nhạc. Bài thơ được phổ
biến vào dịp sau biến cố thảm họa môi trường
do Formosa ở Hà tĩnh gây ra, 4.2016.[62] (Xem phần sau).
Viện trưởng Viện Kinh
tế VN Trần Đ́nh Thiên nêu câu hỏi, tại sao Nhà
nước vẫn nói là kinh tế chuyển dịch tốt,
nhưng công nghiệp VN vẫn yếu? Ông dẫn chứng, công nghiệp
chế biến, chế tạo là lănh vực then chốt
trong phát triển kinh tế, nhưng sau 30 năm chỉ
tăng 1,6%.
Ông dẫn chứng nguyên nhân dẫn tới tụt hậu
v́ các chính sách sai lầm. Theo ông, “trong thời đại
công nghệ cao mà lĩnh vực chế biến chế tạo
chỉ tăng như vậy thử h́nh dung công nghiệp Việt
Nam giậm chân tại chỗ hay thụt lùi ghê gớm so với
thế giới? Ta thích công nghiệp khai khoáng, xây dựng, tập
trung gia công c̣n lĩnh vực tạo năng lực cốt
lơi là chế biến chế tạo lại rất yếu”.
Ông
trách là, Nhà nước CS đă quá chiều chuộng các công
ti FDI, dẫn tới hậu quả là nay tùy thuộc quá nhiều
vào họ.[63] Trong khi
đó theo chuyên gia Phạm Chi Lan, chế độ toàn trị
đă không tạo một sân chơi b́nh đẳng giữa
các hoạt động kinh tế. Trong khi các Doanh nghiệp
nhà nước, các công ti FDI và „doanh nghiệp tư nhân thân
hữu“ được biệt đăi
(tiếp cận các nguồn lực, quyền kinh
doanh, đầu tư công/mua sắm của chính phủ,
bảo hộ để né cạnh tranh...) th́ đại
đa số doanh nghiệp vừa và nhỏ ở
vị thế rất bất lợi, nên không lớn
lên được và dễ bị đào thải. [64]
Tới 2014 cả nước
có khoảng gần 3000 doanh nghiệp công nghiệp phụ
trợ và hoạt động rất yếu. Ngay
bộ Công thương cũng cho biết, công nghiệp phụ
trợ phải sử dụng tới 80% nguyên liệu nhập
khẩu, lại chỉ tập trung vào các hoạt động
đơn giản như đóng gói, bao b́. Các ngành công nghiệp
phụ trợ như giầy dép, dệt may… phần lớn
nằm trong tay các công ti FDI. Các công nhân VN chỉ làm công tác
gia công; trong khi ấy phần chính nguyên liệu phải nhập
cảng, nhất là từ TQ. [65]
Trong khi nhóm cầm đầu toàn trị thề thốt là
công nghiệp hóa hiện đại hóa nền kinh tế th́
nhiều chuyên viên đă chỉ trích và cảnh báo nghiêm khắc
là, „hiện
nay VN đang trở thành quốc gia có nền công nghiệp
gia công toàn diện“, tức là chỉ đi làm thuê và làm những
công việc phụ thuộc cho các công ti FDI.[66] Ngoài
các nguyên nhân không có sân chơi b́nh đẳng và bị chén
ép, các
doanh nghiệp tư nhân VN c̣n bị cán bộ nhũng nhiễu,
hàng năm phải tiếp nhiều phái đoàn thanh tra, muốn
được yên th́ phải trao „phong b́“! Tiến sĩ Cao
Sĩ Kiêm, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ
và vừa, đă cho biết, theo số liệu từ một
cơ quan nghiên cứu có tới 73% doanh nghiệp phải
lót tay cho cán bộ. [67]
Ngay tại QH vào cuối
năm 2015 (22.10.15) Bộ
trưởng Kế hoạch và đầu tư Bùi Quanh
Vinh vừa than thở vừa
trách móc là: „Một đất nước muốn
tự chủ kinh tế thì doanh nghiệp của
nước ấy phải phát triển. Doanh
nghiệp nội địa phát triển thì
mới hỗ trợ cho khu vực FDI, và
tiếp thu công nghệ của nước ngoài...
Nhiều doanh nghiệp FDI, như Nhật Bản, muốn
chuyển giao công nghệ, nhưng doanh nghiệp chúng ta
không có nền tảng để nhận. Chúng ta
kêu ca doanh nghiệp FDI không chuyển giao công nghệ là
do có hai mảng. Thứ nhất họ không
chuyển giao, và thứ hai, họ có chuyển
giao thì chúng ta cũng không có đủ năng
lực tiếp nhận.“[68]
Trong buổi tọa đàm
với Hội Doanh nhân trẻ VN vào cuối năm 2018 TS Trần
Đ́nh Thiên, nay là thành viên Tổ tư
vấn kinh tế của TT, đă phải chua chát nhận
xét, sau trên 30 năm „đổi mới“ nhưng doanh nghiệp
tư nhân VN chỉ đóng góp 8% GDP; trong khi đó đóng góp
của FDI lên tới 20% và DNNN khoảng 27-28%. Theo ông, ở
trong một nước phát triển kinh tế thực sự
với nội lực làm chủ yếu dựa trên kinh tế
thị trường th́ khu vực doanh nhân nội địa
đóng góp đến 60-70%, nếu mạnh th́ đến
80-90%. Nhưng ở VN sau trên „30 năm phát triển kinh tế
thị trường rực rỡ mà chỉ có 8%“. Một
trong những lí do chính là doanh nghiệp tư nhân VN đang bị
bạc đăi và chèn ép. Ông dẫn chứng, trong khi các
doanh nghiệp FDI chỉ phải chịu mức thuế
trung b́nh là 11% th́ các doanh nghiệp VN phải đóng thuế
trung b́nh lên tới 29%, cao hơn gần 3 lần so với
FDI![69]
Nói chung lại, trong suốt ba thập
niên theo mô h́nh Kinh thế Thị trường định
hướng XHCN sở dĩ các xí nghiệp tư nhân VN
không thể vươn lên được v́ nhiều nguyên
nhân: Bị chế độ toàn trị bỏ rơi và
khinh rẻ, bị các DNNN và FDI chèn ép; không được
đối xử b́nh đẳng trong việc tiếp nhận
các nguồn lực kinh tế từ vay tiền, lăi suất,
thuế vụ tới đất đai. Ngoài ra c̣n phải
thường xuyên bị cán bộ các cơ quan đảng
và nhà nước nhũng nhiễu!
V.
Hai trường hợp điển h́nh về
chính sách
của Nhà nước CSVN
với các công ti FDI
Nguyễn Xuân Phúc ưu
đăi Samsung
Từ tháng 2.17 Lee Jae-yong 49
tuổi, Phó chủ tịch công ti Samsung phải ngồi tù ở
Nam Hàn, là người giầu thứ 3 của Nam Hàn với
6,6 tỉ Euro. Ông phải tù 5 năm v́ các tội hối lộ,
che dấu và khai man. Ông đă hối lộ một số tiền
rất lớn cho cựu Tổng thống bà Park để
mong sớm trở thành Chủ tịch Samsung. Nhiều cuộc
biểu t́nh của hàng trăm ngàn người ở Nam Hàn
phản đối quan hệ bất chính và tệ trạng
tham nhũng- hối lộ giữa chính phủ và Samsung. Bà Park cũng bị cách chức Tổng
thống. Cha ông là Lee Kun-hee (72t) năm 2009 cũng bị kết
án 3 năm tù với các tội tương tự, nhưng
không bị ngồi tù; từ 3 năm qua sau khi bị nhồi
máu cơ tim trở thành hôn mê nhưng vẫn là Chủ tịch
Samsung. Đầu tháng 2. 2018 Ṭa án trả tự do cho ông với
điều kiện. Tập đoàn Samsung chiếm tới
20% tổng sản lượng kinh tế của Nam Hàn, có
490.000 nhân viên. Trong quí 3/2017 đă đạt lợi nhuận
11,2 tỉ € (12,91 tỷ USD ), cao nhất từ trước
tới nay. Dự đoán trong tương lai mức lợi
nhuận c̣n cao hơn nữa.[70]
Trong cuộc gặp TT Nguyễn Xuân Phúc tại trụ
sở chính phủ ngày 6.10.17 Tổng giám đốc
Samsung Electronics Hàn quốc Shin Jong Kyun đă cho biết, sau
10 năm đầu tư vào VN đến nay tổng vốn
đầu tư của Samsung đă lên tới 17 tỷ USD.
Samsung dự kiến sẽ xuất khẩu hơn 50 tỷ
USD trong năm 2017, chiếm trên 20% kim ngạch xuất khẩu
của VN. Ông c̣n nhấn mạnh, các nhà máy đặt tại
VN có quy mô lớn nhất, hiện đại nhất của
Samsung.[71]
Đây là cuộc gặp lần thứ hai của đại
diện Samsung với Nguyễn Xuân Phúc trong năm nay và có lẽ
lần này CP xác nhận giành ưu đăi sử dụng
đất và thuế nhiều hơn nữa cho Samsung.
Cho tới trước khi cuộc
gặp này Samsung đă nhận được nhiều
ưu đăi đầu tư từ Chính phủ CS: “Hưởng
thuế thu nhập doanh nghiệp 10% trong 30 năm, miễn
4 năm và giảm 50% trong 9 năm tiếp theo.” Ngoài ra, “các
địa phương cũng đă giành cho Samsung các ưu
đăi về tiền thuê đất, tiếp tục cho
Samsung được giảm 50% thuế thu nhập doanh
nghiệp trong 3 năm tiếp theo sau giai đoạn 9
năm đó.”[72] Các đại diện của
Samsung vẫn chưa thỏa măn với các ưu đăi này,
nên họ đ̣i được đăi ngộ cao hơn sau
việc gia tăng đầu tư. Trong cuộc gặp TT
Nguyễn Xuân Phúc ngày 26.7.17 một đại diện Samsung
ở Thái nguyên đă đề cao sự đầu tư của
Samsung và cam kết „xuất khẩu hơn 50 tỷ USD trong
năm nay”, tương đương với gần ¼ tổng
kim ngạch xuất khẩu của cả nước.[73]
Với mức kim ngạch xuất
cảng gia tăng cao và nhanh như vậy, nên Nguyễn Xuân
Phúc có thể dùng nó để phô trương thành tích
tăng trưởng kinh tế của VN dưới quyền
của ông! V́ thế ông đă hứa với đại diện
Samsung là sẽ ra lệnh cho “Bộ Khoa học và Công nghệ
sẽ sớm cấp chứng nhận doanh nghiệp công nghệ
cao cho Samsung VN v́ đă đạt được các tiêu chí
cần thiết.”[74]
Sớm nhận được giấy chứng
nhận “Doanh nghiệp công nghệ cao” là nỗ lực hàng đầu của Samsung từ
lâu. V́ khi đó Samsung sẽ nhận được những
ưu đăi cao nhất về đất đai và thuế.[75]
Trong ḱ họp cuối
năm của QH đă có dư luận cho là, việc
tăng trưởng quí 3/2017 tăng đột biến lên
tới trên 7% là nhờ sự đóng góp quan trọng của
hai đại công ti FDI Samsung và Formosa.[76]
Có lẽ để giải quyết gánh nặng
của nợ công ngày một
chồng chất trong khi mức tăng trưởng
kinh tế càng đi xuống, nên từ khi làm TT, Nguyễn
Xuân Phúc c̣n dành ưu đăi đặc biệt cho các công ti
FDI hơn cả người tiền nhiệm, đặc
biệt cho Samsung. Cho nên Samsung đă đầu
tư dồn dập vào VN để mở rộng các hoạt
động kinh doanh trong năm 2016-2017. Chỉ trong nửa đầu năm 2017, các công ty
Samsung đạt doanh thu 27,4 tỷ USD (622.000 tỷ đồng);
lợi nhuận sau thuế đạt 3,1 tỷ USD (70.600 tỷ
đồng).[77] Nếu tính
toàn năm 2017 Samsung đă đạt được lợi
nhuận ṛng là 5,8 tỉ USD, trong khi ấy chỉ mới phải
đóng thuế 186 triệu USD cho nửa năm 2017.
Trong cuộc gặp PTT
Vương Đ́nh Huệ ngày 17.11.17 ông Shim Wonhwan, Tổng
giám đốc Tổ hợp Samsung VN, cho biết, hiện
công ti đă có ba trung tâm sản suất tại VN ở Bắc
ninh, Thái nguyên và Sài g̣n, tổng số lao động đang
làm việc trong các nhà máy của Samsung tại VN là 180.000
người (bao gồm cả 20.000 người làm bảo vệ và nhà ăn). Con số
này không kể các nhân viên làm việc trong các đơn vị
cung ứng của Samsung.[78] Trong đó số
phụ nữ c̣n trẻ chiếm tới 75% .[79] Như vậy
Samsung ở VN đứng thứ hai chỉ sau Samsung mẹ
ở Nam Hàn, đồng thời là công ti FDI lớn nhất
ở VN. Samsung tại VN tập trung sản xuất máy
điện thoại cầm tay tối tân và các máy truyền
h́nh có kĩ thuật cao nhất trên thế giới, xuất
khẩu sang khoảng 120 nước.
Samsung hiểu được vai
tṛ cực ḱ quan trọng của họ trong nền kinh tế
VN, nên họ đang t́m mọi cách ép chính quyền CSVN phải
gia tăng ưu đăi, đồng thời chèn ép công nhân
VN. Điều này có thể thấy rơ trong cách đối xử
với các đại diện của Samsung của các giới
chức cao cấp VN. Vài năm trước các đại
diện của Samsung thường gặp trực tiếp
Bộ trưởng 4 T và được phổ biến rộng
răi trong các cơ quan báo đảng. Nhưng hiện nay cả
TT lẫn Phó TT gặp trực tiếp các đại diện
của Samsung. Điều này chuyên gia kinh tế Lê
Đăng Doanh đă tiên đoán trước đây vài
năm, „Chính quyền có những ưu đăi để thu
hút Samsung và Samsung có thể đ̣i các ưu đăi đặc
biệt cao hơn mức b́nh thường v́ họ biết
vị thế của ḿnh.“ [80]
Do được miễn và giảm thuế
tối đa nên trong những năm qua, Samsung đă “tiết
kiệm” được hàng tỷ USD tiền thuế thu nhập
doanh nghiệp phải nộp. Với thuế suất rất
thấp, VN thực sự đă trở thành “thiên đường
thuế” của tập đoàn này. Đây cũng là lư do mà
Samsung ngày càng rót nhiều tiền đầu tư cũng
như chuyển nhiều hoạt động sản xuất
vào VN. [81]
***
Trước những đ̣i hỏi
của phía VN là Samsung nên để các doanh nghiệp VN tham
gia, trong cuộc hội thảo “30 năm lan tỏa vốn
FDI” 7.10.17 ông Bang Hyun Woo, Phó tổng giám đốc Samsung VN
đă nói thẳng, “các sản phẩm của Samsung đang
được xuất khẩu đi toàn cầu và những
linh kiện mà chúng tôi sử dụng đ̣i hỏi phải
rất tin tưởng, liên quan đến chất lượng
vô cùng cao. Nói là doanh nghiệp VN ngay bây giờ có thể tham
gia vào chuỗi cung ứng này vô cùng nan giải.” Có lần
Samsung c̣n trách móc là, công nghiệp VN chậm tiến đến
mức chưa làm được cả cái ốc! Nhà b́nh luận Ngô Nhân Dụng
đă nhận xét:
„Câu
chuyện cái đinh ốc bùng lên trong nước từ
tháng Chín. Báo chí đăng tin công ty Samsung điện tử
thú nhận cơ xưởng ráp máy điện thoại của
họ ở Bắc ninh không t́m ra xí nghiệp nào của
người VN có thể cung cấp những cây đinh xoắn
trôn ốc, c̣n gọi là ốc vít..“
Nhưng rốt cuộc, có 67 doanh nghiệp
cung cấp các linh kiện cho SEV; đại đa số là
các doanh nghiệp của người Đại hàn, Nhật bản,
Singapore, Mă lai. Chỉ có bốn doanh nghiệp VN cung cấp
sản phẩm và dịch vụ cho SEV, mà việc chính của
họ là làm bao b́, in ấn. Ông Shim Won Hwan, tổng
giám đốc Samsung ở VN mới, nói tại một hội
thảo ở HN vào tháng Chín vừa qua rằng, “không doanh
nghiệp VN nào 'nắm bắt' được cơ hội,
họ chỉ cung ứng được những sản phẩm
in ấn, bao b́!” C̣n những thứ “cao cấp” như cái
đinh ốc vít, người VN làm không được theo
tiêu chuẩn của Samsung! Họ cũng không kiếm mua
được những bộ phận “sạc” điện
cho cell phone do người VN làm.“ [82]
Tới giữa năm 2017
chính báo Infonet của bộ 4T cho biết, mới chỉ có
25 doanh nghiệp VN tham gia chuỗi cung ứng cấp 1 cho
Samsung. [83]
Nhưng khi giải tŕnh trước Quốc hội tại
phiên thảo luận về t́nh h́nh kinh tế-xă hội vào
1-11.17, bộ trưởng bộ Công Thương Trần Tuấn
Anh đề cập đến vấn đề phát triển
công nghiệp hỗ trợ lại cho biết, hiện có
khoảng 30 doanh nghiệp cung cấp linh kiện điện
tử trực tiếp cho Samsung tại VN và đều là
các doanh nghiệp FDI, chứ chưa có bất kỳ doanh
nghiệp nội địa nào.[84] Trong
khi đó khi làm việc với đại diện Samsung ở
Thái nguyên ngày 26.7.17 để
xét việc giành ưu đăi thuế đặc biệt cho
Samsung Nguyễn Xuân Phúc đă hết lời khen ngợi là,
hiện đă có „215 nhà cung cấp là doanh
nghiệp VN“ và „tỉ lệ nội địa hóa của
Samsung VN đạt 57%“.[85]
Ông Phúc đưa ra con số cao gấp nhiều lần về
việc các doanh nghiệp tư VN tham gia hệ thống xí
nghiệp phụ trợ cho Samsung là để có cớ xếp
Samsung vào Luật Công nghệ cao?
Một điều rơ ràng nhất là, Samsung VN nhập
khẩu từ Samsung mẹ ở Hàn quốc hầu như
toàn bộ các máy móc và linh kiện điện tử. Đây
cũng là lí do chính khiến mức nhập khẩu hàng hóa
vào VN của Nam Hàn đă gia tăng rất mạnh trong vài
năm gần đây.
Gần 200.000 công nhân VN,
đại đa số là phụ nữ trẻ chỉ làm
gia công, phải lao động rất vất vả dưới
những điều kiện nghiêm ngặt, nhưng
lương bổng lại rất thấp. Lê Đăng Doanh đă
nhận xét, “năng suất lao động của công nhân
VN làm đạt 80% năng suất lao động, trong khi
tiền lương chỉ bằng khoảng 10%.“ Phần lớn các phụ nữ
này đă bỏ quê ra tỉnh để làm công nhân cho Samsung.
Cuối tháng 11.17 Tổ chức phi chính phủ Thụy
Điển IPEN -một tổ chức phi vụ lợi có
uy tín quốc tế, chuyên về bảo vệ sức khỏe
và môi trường- phối hợp với Trung tâm Nghiên cứu
giới, gia đ́nh và môi trường trong phát triển ở
HN (CGFED), đă công bố Bản báo cáo về điều kiện
làm việc của nữ công nhân ở các nhà máy điện
tử của Samsung tại VN. Theo báo cáo này, IPEN và CGFED
đă phỏng vấn 45 nhân viên Samsung và đưa ra nhận
xét:
“Tiếng ồn ở khu sản
xuất cao hơn nhiều so với cho phép của VN, tất
cả nhân viên được phỏng vấn đều cảm
thấy mỏi mệt trầm trọng và chóng mặt, sẩy
thai ở người lao động diễn ra thường
xuyên...” Công nhân phải đứng làm việc suốt
8-12 giờ, công nhân mang thai cũng phải lao động
như vậy. Nhiều công nhân bị sổ mũi, rối
loạn tiêu hóa, đau chân…Báo cáo c̣n cho biết, hàng ngày công
nhân bị Samsung kiểm soát quá nghiêm ngặt, “thời gian
nghỉ ngắn và nếu muốn đi vệ sinh th́ lại
phải được cho phép ra vào đặc biệt.”
Báo
cáo đưa ra yêu cầu, “phải điều tra bổ sung về việc
ṛ rỉ hóa chất. Bởi người lao động
đang làm việc trong môi trường mở tiếp xúc với
nhiều loại hóa chất đa dạng nhưng lại
không nhận thức được về những rủi
ro hóa chất trong công đoạn lắp ráp.” [86]
Ngay hôm sau đại diện
Samsung đă lên tiếng phủ nhận các lời cáo buộc
trên. Samsung “công nhận có sử dụng hóa chất trong một
số công đoạn, nhưng đều áp dụng các biện
pháp để công nhân không bị phơi nhiễm nhờ thiết
bị thoát khí, cùng việc đeo thiết bị bảo hộ.”
[87]
Thanh tra của bộ Lao
động & thương binh, xă hội cho
biết, vào tháng 7.17 đă thanh tra ở hai trung tâm của
Samsung ở Bắc ninh và Thái nguyên và cho biết, phụ nữ
mang thai từ tháng thứ 7 được nghỉ. Theo Bộ,
các cáo buộc khác trong Bản báo cáo của IPEN là “chưa
thuyết phục”. Nhưng Bộ xác nhận Samsung đă vi
phạm pháp luật về qui chế lao động. “Samsung
chia thời gian làm việc thành hai ca. Ca ngày 8-20h, ca đêm từ
20h đến 8h sáng hôm sau và đưa vào nội quy lao
động, luân phiên làm việc 4 ngày liên tục sẽ
được nghỉ 2 ngày.” Qui định này trái với
Luật lao động 2012. Theo đó giờ làm việc
không quá 8h/ngày và không quá 48h/tuần; giờ làm việc ban
đêm từ 22h-6h sáng hôm sau; giờ làm thêm không quá 30h/tháng,
200h/năm. [88]
Nếu giữ thái độ khách
quan và thận trọng th́ những lời xác nhận trên của
Thanh tra của bộ Lao động & thương binh,
xă hội có lẽ mới chỉ là một phần rất
nhỏ của sự thực. V́ trong quá khứ đă chứng
minh nhiều lần, các cơ quan thanh tra của đảng
cũng như chính phủ không thể tin cậy. Như
trong các vụ PMU 18, Vinashin và Formosa các cơ quan thanh tra của
nhiều cơ quan đă thanh tra, nhưng rốt cuộc
đều có báo cáo tốt! Tuy nhiên những điều nêu
trong Báo cáo này trái ngược với khen ngợi của
Nguyễn Xuân Phúc vài tháng trước. Khi ông thăm công ti
Samsung ở Thái nguyên đă nói là, “đời sống công
nhân, người lao động ngày càng được nâng
cao, trong đó công ty quan tâm đến khu ăn ở, giải
trí, lao động nữ…”[89]
***
Không ai phủ nhận công
ti Samsung là một trong những công ti điện tử hàng
đầu trên thế giới hiện nay. Nó cũng là một
trong vài công ti lớn nhất của Nam Hàn và đóng góp phần
quan trọng cho sự phát triển và hưng thịnh kinh tế
của nước này. Nhưng đó không phải là công lao
riêng của Samsung mà c̣n là cả nửa triệu công nhân của
công ti ở Nam Hàn và của nhân dân Nam Hàn nói chung. Trong đó
không thể quên được những cuộc biểu
t́nh của hàng trăm ngàn người phản đối chính
sách bạc đăi công nhân và hối lộ của các Ban giám
đốc công ti này.
Mặc dầu chế độ
toàn trị ở VN giành rất nhiều đặc ân để
Samsung chỉ trong vài năm trở thành nhà đầu tư
FDI lớn nhất hiện nay ở VN kể
cả về vốn và kim ngạch xuất khẩu.
Nhưng Samsung có thực sự phục vụ phát triển
kinh tế VN theo những mục tiêu đề ra của chế
độ toàn trị trong việc thu hút FDI vào VN hay không?
Đó là để các xí nghiệp VN cùng tham gia trong các khâu sản
xuất để nâng cao tŕnh độ kĩ thuật và quản
trị, bảo vệ quyền lao động của hàng
trăm ngàn công nhân và đóng góp vào sự phát triển kinh tế
của VN.
Mặc dầu trong những
năm gần đây Samsung ở VN đạt được
lợi nhuận hàng năm nhiều tỉ Mĩ kim, phần
chính là v́ nhà cầm quyền ở trung ương và địa
phương đă ưu đăi thuế rất cao từ xuất
cảng tới nhập cảng các sản phẩm. Nhưng
ngược lại số xí nghiệp tư nhân VN tham gia với
Samsung có thể đếm trên đầu ngón tay. Gần
200.000 công nhân, phần lớn là phụ nữ trẻ, phải
chịu những điều kiện lao động rất
bất lợi, từ lương bổng tới các bảo
hiểm xă hội. Nói chung là công ti tư nhân VN chỉ đứng
bên lề và công nhân VN chỉ đóng vai làm gia công cho Samsung.
Đây là chính sách đem con bỏ chợ của chế
độ toàn trị. Nó thể hiện rơ ràng đây là chủ
chương đầu cơ đầy rủi ro và rất
phiêu lưu.
Những người đứng
đầu Samsung nắm bắt được những
nhược điểm của những người cầm
đầu chế độ toàn trị CSVN là tŕnh độ
quản trị kinh tế rất yếu, nền kinh tế
đang đứng trước vực thẳm, nhưng chỉ
thích đề cao thành tích bề ngoài, cơ chế và cán bộ
tham nhũng và bất lực. V́ thế chỉ trong ít
năm Samsung đă trở thành trụ cột của kinh tế
VN, hiện nay chiếm tới hơn ¼ tổng kim ngạch xuất khẩu
của VN. Nhưng trong thực tế những thành công này
chỉ đem lại lợi ích riêng rất lớn và rất
nhanh cho Samsung. Do sự gia tăng xuất khẩu rất lớn
của Samsung nên Nguyễn Xuân Phúc đă hô hoán là kinh tế
VN đang phục hồi, đạt tăng trưởng
cao nhất sau nhiều năm. Nhưng nếu tính toán nghiêm
túc sẽ thấy Samsung không đóng góp quan trọng vào ngân
sách quốc gia của VN. V́ Samsung được hưởng
các ưu đăi thuế rất cao. Ngoài ra mức xuất khẩu
gia tăng th́ mức nhập khẩu của Samsung cũng
gia tăng rất mạnh.
Tóm lại, mặc dầu những
mục tiêu trong việc mời gọi Samsung đầu
tư tại VN đă không đạt được,
nhưng nhà cầm quyền CSVN vẫn liên tiếp giành từ
ưu đăi này tới đặc quyền khác cho Samsung.
Sự
hoạt động càng bung ra của Samsung càng chứng tỏ
có sự tiếp tay của những người có thế
lực nhất trong chế độ. Chính các sự kiện
này đă dẫn tới câu hỏi, tại sao trong giai đoạn
Nguyễn Phú Trọng đang hô hoán đốt ḷ chống
tham nhũng, nhưng một công ti nổi tiểng về hối
lộ như Samsung -ngay cả ở chính quốc Nam Hàn- lại
đang được nâng đỡ và chiều chuộng hết
mức ở VN? Nguy hiểm cực ḱ khác nữa là, nền
kinh tế VN đang ngày lệ thuộc nhiều mặt vào
một công ti lớn nước ngoài. Điều này có thể
dẫn tới những hậu quả rất nguy hại
cho cả kinh tế lẫn chính trị VN! Chính sách đối
với Samsung nói riêng và với các công ti FDI nói chung từ
Nguyễn Phú Trọng, Nguyễn Tấn Dũng tới Nguyễn
Xuân Phúc không phải là mă t́m mă, nhưng đúng là ngưu t́m
ngưu!
Nguyễn Phú Trọng
ưu ái Formosa
Tại sao ông Trọng lại đủng đỉnh tới
thăm Ban giám đốc Formosa,
giữa lúc hàng triệu nhân dân là nạn nhân do thảm họa
cá chết hoàng loạt?
Ngay từ đầu tháng 4.16 đại diện
sở Nông nghiệp-phát triển nông thôn (NN-PTNT) Hà tĩnh
cho biết, „cá nuôi ven biển và cá tự nhiên chết bất
thường xuất hiện từ ngày 6.4 tại vùng ven biển
xă Kỳ lợi và tại xă Kỳ hà, Kỳ ninh (thị xă
Kỳ anh) vào ngày 7.4. Ngày 11.4, sau khi công ty Grobest tại xă Kỳ
phương (thị xă Kỳ anh) cấp nước biển
vào ao nuôi khoảng 6 giờ đồng hồ th́ xảy ra
hiện tượng tôm nuôi chết hàng loạt. Đến
ngày 14.4, ngao nuôi tại 2 xă Kỳ hà và Kỳ ninh tiếp tục
bị chết, gây thiệt hại khoảng 4,71 tỉ
đồng.“[90] Khi ấy Phó pḥng Kinh tế và đô thị
thị xă Kỳ anh Nguyễn Thị Thủy cũng cho biết,
„địa bàn xă Kỳ lợi xuất hiện cá chết
đầu tiên nằm cách cảng Sơn dương của
khu kinh tế Vũng áng khoảng 4 - 5 km, c̣n các xă Kỳ
ninh, Kỳ hà cách Vũng áng khoảng 20 km về phía bắc
th́ tôm, cá chết sau đó một ngày.“ [91]
Các địa danh này là khu vực nằm cạnh
Khu công nghiệp Vũng áng khổng lồ của công ti
Đài loan Formosa Hà tĩnh (FHS). Đến giữa tháng 4 các
tin dồn dập cùng những h́nh ảnh nhiều loại
cá lớn nhỏ chết hàng loạt rất khủng khiếp
và kinh hoàng suốt mấy trăm cây số dọc duyên hải
từ các tỉnh Hà tĩnh, Quảng b́nh, Quảng trị,
Thừa thiên-Huế do chính các báo lề đảng như
Tuổi trẻ, Thanh niên, Lao động, Dân trí, VTV, VNNet… phổ
biến đă tràn ngập dư luận các tỉnh ven biển
miền Trung làm nhân dân rất hoang mang lo lắng. Hàng chục
ngàn ngư dân không dám ra biển đánh cá, người dân cả
nước không dám ăn cá, dịch vụ du lịch các băi
biển miền Trung thu hút hàng triệu du khách VN và ngoại
quốc lo lắng bị mất khách!
Măi tới ngày 19.4 Tổng cục Thủy sản
(Bộ Nông nghiệp - Phát triển nông thôn) mới đến
Hà tĩnh kiểm tra về nguyên nhân cá chết và cho biết,
„cá chết là do chất độc gây ra nhưng chưa xác
định đó là chất ǵ.“[92] Điều này có nghĩa là phải khẩn
trương nghiêm túc điều tra tiếp để t́m ra
nguyên nhân gây ra nạn cá chết hàng loạt, tàn phá và hủy
hoại môi trường thiên nhiên và de dọa cuộc sống
của hàng triệu ngư dân và những người sinh sống
bằng dịch vụ du lịch.
Giữa khi ấy báo chí đưa tin,
„Tổng bí thư kiểm tra tiến độ dự án
Formosa“.[93] Nhiều người nghĩ rằng, v́ vừa
được tái cử TBT nên Nguyễn Phú Trọng đă
nhạy cảm trước nỗi lo sợ và sự bất
b́nh của nhân dân về thăm Hà tĩnh và khu công nghiệp
gang thép Formosa để thúc đẩy cuộc điều
tra về vụ cá chết hàng loạt. Nhưng thật là
thất vọng và sai lầm lớn, ngày 22. 4 Nguyễn Phú
Trọng cầm đầu phái đoàn cao cấp của
đảng và chính phủ gồm Nguyễn Văn B́nh, UVBCT,
Trưởng Ban Kinh tế TU; Nguyễn Văn Nên, Bí thư TUĐ,
Chánh Văn pḥng TU và lănh đạo nhiều Ban, Bộ, ngành
TU về thăm Hà tĩnh. Ông giành toàn thời gian tới
thăm khu công nghiệp gang thép và cảng nước sâu
Sơn dương Formosa Hà tĩnh. Dự án này rất khổng
lồ với mức đầu tư giai đoạn 1 lên
tới 10,5 tỉ USD.[94] Ban giám đốc của FHS đă hoan hỉ
báo cáo cho Nguyễn Phú Trọng biết, nhà máy sản xuất
thép, nhiệt điện, cầu cảng đă bắt
đầu hoạt động!
Ban giám đốc FHS c̣n hănh diện báo cáo với
ông Trọng, từ tháng 12. 2015 FHS đă cho ra ḷ sản phẩm
thép cuộn cán nóng đầu tiên và đến nay đă có
hơn 7.000 tấn thép cuộn được xuất ra thị
trường trong và ngoài nước. „Dự kiến, tháng
6. 2016 sẽ hoàn thành và đưa vào hoạt động ḷ
cao số 1. Khi đi vào hoạt động, đây sẽ
là nhà máy luyện gang thép lớn nhất Đông Nam Á tính
đến thời điểm hiện nay.“[95] Nguyễn
Phú Trọng và phái đoàn cao cấp rất chăm chú và
ngưỡng mộ thành quả kinh doanh của FHS. Trong dịp
này tuyệt đối từ Nguyễn Phú Trọng tới
các nhân vật cao cấp trong phái đoàn không ai đả
động một câu hỏi nào với Ban giám đốc
Formosa đến thảm khốc cá chết hoàng loạt
đang bùng nổ từ đầu tháng 4 khởi đầu
từ cảng Sơn
dương thuộc khu công nghiệp Vũng Áng của FHS
khiến cho nhân dân cả nước đang lo lắng và bất
b́nh „Cá chết trắng biển miền Trung“ ![96] Ông Trọng và phái đoàn cũng không đến
thăm các nạn nhân! Tại sao người cầm đầu
chế độ CS vẫn vỗ ngực là bảo vệ
quyền lợi người lao động, nhưng lại
chẳng thèm ngó tới thảm trạng của ngư dân,
trong khi ấy lại khen ngợi và vuốt ve tỉ phú
Dollar nước ngoài? Chả lẽ người đứng
đầu chế độ toàn trị lại không biết
thảm trạng môi trường ngay chính nơi ông tới
thăm đă diễn ra từ hơn ba tuần?
Chỉ một ngày sau Đinh Thế Huynh,
Thường trực BBT và khi đó được coi là kế
nghiệp ông Trọng, cũng có mặt tại Quảng trị,
không xa Hà tĩnh. Ông
đă chỉ họp với lănh đạo Quảng trị
về t́nh h́nh kinh tế, xă hội, quốc pḥng-an ninh và xây
dựng đảng; bàn cả việc tôn tạo, nâng cấp
Khu tưởng niệm Lê Duẩn. Ông c̣n giành thời gian
đi thăm Nghĩa trang Trường sơn. Nhưng
người đứng thứ hai trong đảng cũng
tuyệt nhiên không thèm đả động tới thảm
trạng „Cá chết trắng biển miền Trung“ và cũng
chẳng thèm tới thăm hỏi dân chài, những nạn
nhân ở Quảng trị sinh sống ra làm sao từ khi xẩy
ra đại nạn cá chết hàng loạt![97]
Ngày 17.4 giữa lúc tiếng than và nỗi bất
b́nh của nhân dân về „Cá chết trắng biển miền
Trung“, tân TT Nguyễn Xuân Phúc đă giành chọn ngày thăm
Quảng trị, nhưng cũng không có th́ giờ đi
thăm các nạn nhân ngư dân đau buồn, chỉ giành toàn thời gian thăm Nghĩa
trang Trường sơn, Nhà lưu niệm Lê Duẩn và
Thành cổ Quảng trị.[98] Việc cố t́nh chọn những địa
chỉ trên tới thăm viếng đă cho thấy ông Phúc
vẫn chỉ muốn khơi dậy hận thù giữa các
tầng lớp nhân dân mặc dầu đă sau 41 năm „chiến
thắng“, thay v́ „ḥa giải dân tộc“ như những lời
ngon ngọt trước đây. Ông Phúc cũng cố quên lời
khuyên chân thành và thực tế của cố TT Vơ Văn Kiệt
là, kỉ niệm ngày „giải phóng“„có hàng triệu người
vui, nhưng cũng có hàng triệu người buồn“!
Trước nỗi bất b́nh và lo âu của
nhân dân cả nước, v́ đâu mà nạn cá chết diễn
ra từ cảng Sơn
dương của khu kinh tế Vũng áng thuộc Formosa
suốt gần ba tuần mà vẫn không t́m ra được
nguyên nhân; ngày 25.4 tờ Tuổi trẻ đă có cuộc phỏng
vấn ông Chu Xuân Phàm, Trưởng văn pḥng Formosa tại
HN, về vụ cá chết hàng loạt bắt đầu từ
bờ biển Khu công nghiệp Formosa. Ông Phàm đă trả lời
thẳng băng:
„Trước khi xây dựng dự án này th́
công ty phải xin phép Nhà nước VN. Nhiều khi
được cái nọ mất cái kia, đây là tôi nói thật
ḷng. Hôm nay nhà nước ḿnh muốn cho ngư dân đánh bắt
ở đây hay là chọn cái nhà máy thép ở đây,
đương nhiên Nhà nước phải có sự cân nhắc.
Nếu xả thải th́ đương nhiên sẽ thay
đổi sinh học ở đây, ở vùng biển quanh
đây. Nhưng bây giờ mà nói tôi không thể xây dựng
nhà máy thép ở đây mà không ảnh hưởng đến
con cá, con tôm. Đương nhiên ḿnh cố gắng làm một
nhà máy đạt được tiêu chuẩn quy định
của nhà nước. Có khi được cái này th́ phải
mất cái kia chứ.” Rồi ông đưa ra kết luận
rất tỉnh bơ và đầy thách thức, coi việc
hàng triệu nhân dân miền Trung đang bị điêu đứng
không đáng quan tâm bằng sự tồn tại của
Formosa: „Muốn bắt cá, bắt tôm hay nhà máy, cứ chọn
đi. Nếu chọn cả hai th́ làm Thủ tướng cũng
không giải quyết được…”[99]
Tại sao Trưởng văn pḥng Formosa tại
HN đă có những phát biểu rất phách lối, khiêu
khích gây sốc như vậy khi trả lời phóng viên Tuổi
trẻ vào sáng 25-4? Có phải
chính thái độ rất thờ ơ của TT, vô cảm trước hàng
trăm ngàn nạn nhân của tai nạn cá chết hàng loạt;
đặc biệt là sự ưu ái tới thăm Ban giám
đốc Fomosa ngày 22.4 của Nguyễn Phú Trọng,
người cầm đầu chế độ toàn trị,
làm họ tin rằng, họ có chỗ chống lưng rất
vững chắc, không chỉ ở HN mà c̣n cả BK nên chẳng
ai có thể làm ǵ Formosa được?
Từ sau trận đánh ngă „Đồng
chí X“ ông Trọng đang trở thành người hùng nên ai cũng
sợ? V́ thế không thèm nhắc tới đại nạn
„Cá chết trắng biển miền Trung“, lại đủng
đỉnh tới thăm Ban giám đốc Formosa. Thử
hỏi như thế th́ bọn quan cấp dưới bố
bảo không dám nêu đích danh Formosa ra tố. Chính v́ thế, Vụ phó Vụ
Nuôi trồng thủy sản, bộ Nông nghiệp & Phát
triển Nông thôn Phạm Khánh Ly cho biết, “đoàn công tác không vào kiểm
tra tại khu công nghiệp Vũng áng được,
vì đây là khu công nghiệp có yếu tố nước
ngoài, đoàn không có thẩm quyền”.[100] Như vậy Ban giám đốc Formosa
đă coi khu công nghiệp của ḿnh giống như sứ
quán của một nước bất khả xâm phạm.[101] Họ cho ai vào, làm ǵ, làm đến đâu
trong các công xưởng của họ là quyền riêng của
họ. Các cơ quan điều tra của VN nếu có vào cũng
chỉ làm những ǵ họ cho phép mà thôi! Chính v́ thế Formosa đă dám nói
công khai, „không có bất cứ bằng chứng nào chứng
tỏ sự liên can“ của công ty trong vụ việc này, và
giới chức VN đă „liên tục vào bên trong công xưởng
tiến hành kiểm tra hệ thống xử lư nước
thải, lấy mẫu nước thải“ kể từ
22.4 tới nay, tức là sau chuyến thăm của Nguyễn
Phú Trọng!
Chính v́ vậy chỉ một ngày sau khi Nguyễn
Phú Trọng thăm Formosa, Thứ trưởng Bộ
NN&PTNT Vũ Văn Tám cũng nói giống như tin trên
đây của Ban giám đốc Formosa. Ông cho biết về
kết quả kiểm tra bước đầu, nguyên nhân
do môi trường nước, qua phân tích mẫu những
chỉ số th́ không có ǵ bất thường trừ một
số mẫu ở Huế mang tính cục bộ.[102] Tuyên bố này hoàn toàn ngược lại
với nhận định của Sở Nông nghiệp-Phát
triển nông thôn Hà tĩnh vào đầu tháng 4 cho biết,
„hiện tượng cá nuôi ven biển và cá tự nhiên chết
bất thường xuất hiện từ ngày 6.4 tại
vùng ven biển xă Kỳ lợi và tại xă Kỳ hà, Kỳ
ninh (thị xá Kỳ anh) vào ngày 7.4.“
Và cũng trái với sự xác nhận của Phó pḥng Kinh tế và đô
thị (Kỳ anh) Nguyễn Thị Thủy „địa bàn
xă Kỳ Lợi xuất hiện cá chết đầu tiên nằm
cách cảng Sơn Dương của khu kinh tế Vũng
Áng khoảng 4 - 5 km, c̣n các xă Kỳ ninh, Kỳ hà cách Vũng
áng khoảng 20 km về phía bắc th́ tôm, cá chết sau
đó một ngày“ -như nói ở trên!
Lí do quan trọng khác khiến đại diện
Formosa tại HN dám phát biểu khiêu khích „gây sốc“ ngày 25.4
là có lẽ họ tin rằng, có cả BK đứng đằng
sau. Formosa Hà tĩnh tuy là công ti Đài loan, nhưng trong những
năm gần đây tuyển chọn công nhân nước
ngoài phần rất lớn là từ TQ. Ngoài ra vốn đầu
tư của Formosa mẹ từ Đài loan đang giảm
mạnh và nhường cho một số công ti từ TQ. Khi
giàn khoan HD 981 xâm nhập trái phép thềm lục địa
VN vào giữa 2014 đă xẩy ra va chạm lớn khiến
hàng ngàn công nhân TQ đă phải bỏ về nước,
nhưng sau đó Nguyễn Phú Trọng đă phải xin lỗi
Tập Cận B́nh và số công nhân này lại trở lại
Formosa làm việc (xem
Chương bẩy, IV). Về mặt an ninh quốc pḥng,
khu vực Vũng áng Hà tĩnh nằm đối diện
không xa đảo Hải nam của TQ. Trong kế hoạch
bành trướng công khai ngang ngược của BK trên biển
Đông th́ khu công nghiệp Vũng áng Formosa có thể trở
thành tay trong cực ḱ quan trọng khi t́nh thế cho phép BK ra
tay!
Sau phát ngôn gây chấn động, Chu Xuân
Phàm đă bị Formosa sa thải để làm dịu dư
luận. Nhưng nội dung lời phát biểu của cựu
đại diện Formosa đă tự để lộ những
hoạt động của công ti này không thèm đếm xỉa
ǵ tới luật pháp VN, v́ tin rằng đă có chân trong ủng
hộ đang giữ những chức cao nhất. Dùng sức
mạnh tiền bạc nhiều tỉ USD trong vài năm vừa
qua Formosa có thái độ phách lối và cách hoạt động
như kiểu quốc gia trong một quốc gia: „Nếu
xả thải th́ đương nhiên sẽ thay đổi
sinh học ở đây, ở vùng biển quanh đây“, „có
khi được cái này th́ phải mất cái kia chứ“,
„muốn bắt cá, bắt tôm hay nhà máy, cứ chọn
đi!“ Rơ ràng với tuyên bố trên Formosa đă gián tiếp
thừa nhận, thời gian qua Formosa đă xả nước
thải với những hóa chất có chất độc cực
mạnh làm tàn phá môi sinh trên biển.
Theo tờ Tuổi trẻ th́ Tổng cục
môi trường xác nhận là, „Formosa có vi phạm khi thực
hiện việc súc xả đường ống nhưng
không thông báo cho địa phương.“ Ngày 25.4 báo này c̣n liệt
kê 45 loại hóa chất Formosa nhập cảng để súc
rửa đường ống. Vẫn theo Tuổi trẻ,
„GS,TS Lê Huy Bá (chuyên gia độc học môi trường)
cho biết nhận định ban đầu của ông về
danh sách các loại hóa chất được sử dụng
tại Formosa gồm nhiều chất độc và cực
độc. Trong đó có các chất chống gỉ, chất
làm sạch bề mặt kim loại, chất tẩy.“ „Theo
quy định, khi súc xả đường ống, Formosa
có trách nhiệm phải thông báo cho địa phương
việc súc xả đường ống diễn ra từ
thời điểm nào tới thời điểm nào,
nhưng Formosa không thông báo, cũng không báo cáo các cơ quan ở
địa phương về việc súc rửa đường
ống.“[103] Tờ VNNet c̣n cho biết, „1 thợ lặn
Formosa tử vong, 5 người nhập viện“ khi lặn
xuống biển nơi đường ống của
Formosa dẫn ra.[104] Tập đoàn Formosa xuất thân từ
Đài loan với vốn đầu tư nhiều tỉ
USD cũng đă từng vi phạm pháp luật ở nhiều
nơi trên thế giới. Ngay ở Đài loan Tập
đoàn này cũng đă bị phạt v́ gây thiệt hại
môi trường. „Chẳng hạn hồi tháng 7.2010, Formosa bị
cho là "gây ô nhiễm không khí vùng miền Trung Đài
loan" sau một vụ cháy công nghiệp tại nhà máy ở
Mai Liao của họ“.[105]
***
Trong khi nhiều cơ quan chính quyền
địa phương ngay trong những ngày đầu
đă đưa ra những nhận định khá rơ ràng về
nguyên nhân đưa đến đại nạn làm cá chết
hàng loạt, nhưng suốt trên ba tuần nhiều bộ trưởng,
thứ trưởng không chỉ trốn tránh không thực
hiện trách nhiệm điều tra nghiêm túc và minh bạch,
lại c̣n t́m cách bao che cho Formosa, hoặc đưa ra những
tin và lập luận rất mâu thuẫn nhau, thậm chí cực
ḱ ngớ ngẩn. Ba tuần sau đến lượt
cá biển ở khu B́nh trị thiên-Huế bị chết, tờ
Công an nhân dân ngày 26.4 đưa tít „Nước biển vùng
cá chết được xác định nhiễm kim loại
nặng“ : „Chiều 26-4, Sở Tài nguyên&Môi trường
tỉnh Thừa thiên- Huế đă có kết quả phân tích
mẫu nước lấy tại khu vực đầm Lập
an, cửa biển Lăng cô (thị trấn Lăng cô, huyện
Phú lộc) vào thời điểm xuất hiện cá chết
tràn lan…Riêng các thông số gồm tổng hàm lượng
nitơ tính theo amoni (NH4+-N), hàm lượng kim loại nặng
crôm (Cr) vượt giới hạn cho phép của quy chuẩn
kỹ thuật quốc gia về chất lượng
nước biển cũng như quy chuẩn kỹ thuật
quốc gia về chất lượng nước mặn.
Theo đánh giá ban đầu của cơ quan chức
năng tỉnh Thừa thiên- Huế, khả năng chất
độc trong môi trường nước gây sự cố
cá chết hàng loạt xuất hiện từ vùng biển
phía Bắc của tỉnh.“[106]
Nhưng trong cuộc họp báo tối 27.4
thứ trưởng bộ Thiên nhiên và môi trường Vơ Tuấn
Nhân đă làm trên 200 nhà báo lề phải vừa thất vọng,
vừa rất bất b́nh về thái độ vô trách nhiệm
và lấp liếm. Sau cuộc
họp kín nhiều tiếng đồng hồ của đại
diện nhiều bộ và cơ quan do bộ trưởng Bộ
Tài nguyên-môi trường Trần Hồng Hà chủ tŕ, khiến
các nhà báo phải chờ đợi đến cả nửa
ngày. Nhưng cuối cùng Trần Hồng Hà đă đẩy
thứ trưởng Tài nguyên&Môi trường Vơ Tuấn
Nhân mở „Buổi họp báo chỉ diễn ra trong 6 phút“.
Trong đó ông khẳng định „Formosa vô can“. [107] Sau khi
đưa ra 2 giả thuyết về nguyên nhân làm cá biển
chết hàng loạt (hóa chất độc và „hiện
tượng thủy triều đỏ“), ông Nhân khẳng
định: “Đến nay, qua kiểm tra và thu thập chứng cứ,
chưa có bằng chứng để kết luận về
mối quan hệ liên quan của Formosa và các nhà máy đến
vấn đề cá chết hàng loạt. Qua số liệu
quan trắc và đánh giá của cả các cơ quan nghiên cứu
khoa học, cơ quan quản lư nhà nước có liên quan,
môi trường nước biển chưa phát hiện các
thông số môi trường vượt quy chuẩn quy định”.[108] Sau đó ông Nhân chuồn mất!
Trong cuộc gặp riêng Vơ Tuấn Nhân, tờ
Thanh niên đă tường thuật câu hỏi và trả lời
của Thứ trưởng này bảo vệ cho Formosa thật
là ḱ lạ:
“ Thưa ông, trong 2 nhóm nguyên nhân th́ nhóm thứ
nhất nói có thể do độc tố thải ra từ
hoạt động của con người, vậy cụ
thể độc tố là ǵ? Có độc tố nào trùng với
hơn 40 loại hóa chất mà Formosa được phép nhập
khẩu vào VN để súc rửa đường ống
không ?
- Chúng tôi chưa phát hiện ra…- Tôi xin khẳng
định, về mặt pháp luật, họ vẫn hoạt
động đúng theo pháp luật nước ta. Về mặt
xả ra môi trường, liên quan đến hiện tượng
cá chết hàng loạt ở các tỉnh ven biển miền
Trung, đến nay chưa đủ căn cứ để
kết luận.
Ông có thể cho biết kết quả phân
tích mẫu nước và mẫu cá của Bộ?
- Cái này nói ra phải có căn cứ giấy
tờ cụ thể, rất dài, rất nhiều thông số.“[109]
Trong khi giữ thái độ câm và điếc
không thông tin chính xác và nguội lạnh trước những
bức xúc của nhân dân cả nước, nhưng Vơ Tuấn
Nhân lại rất thính tai và năng động trước
câu hỏi của một nữ phóng viên về tin không tốt
cho chế độ, về nguy cơ ngành du lịch có thể
bị tê liệt và yêu cầu bà tắt máy ghi âm. Bà hỏi:
“Thưa ông, trong cái kiểm nghiệm gần
đây nhất của Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh
Thừa thiên – Huế, chỗ có một loạt các bè cá chết,
th́ họ có nói trong nước kiểm nghiệm ra có kim loại
nặng. Vấn đề ở đây là trong thời gian tới,
chúng tôi muốn là ḿnh có thể trong một thời gian ngắn,
v́ mùa du lịch sắp tới rồi, mà cá th́…”
“Nghe tới đây, ông Vơ Tuấn Nhân liền
khoát tay ra hiệu dừng lại và nói: “Tắt máy. Tắt
máy nghe. Xin lỗi. Không, không, để anh nói riêng với
em. Đừng hỏi câu đó. Hỏi câu đó tổn hại
cho đất nước của ḿnh. Nhá. Em hỏi câu
đó làm tổn hại cho đất nước của
ḿnh”.[110]
Không chỉ trên 200 nhà báo lề
phải hoàn toàn thất vọng về “cuộc họp báo 6
phút” của thứ trưởng Tài nguyên&Môi trường
Vơ Tuấn Nhân mà nhiều nhà khoa học cũng đă kịch
liệt chỉ trích những lời tuyên bố rất lếu
láo của ông. GS-TS Vũ Trọng Hồng, nguyên thứ
trưởng Bộ Thủy lợi, nói thẳng: “bộ
Tài nguyên-Môi trường là cơ quan chức năng
được nhà nước giao nhiệm vụ, nhưng
kết luận như vậy là không hợp logic diễn biến
của vụ việc.”
Nhưng ngày hôm sau trong cuộc họp nội
các giả thuyết “thủy triều đỏ” bị bác
bỏ. Có lẽ trước sự bất b́nh ngày càng mănh
liệt của nhân dân về cuộc “Họp báo 6 phút” tối
trước, nên TT Nguyễn Xuân Phúc đă vội vàng để
bộ trưởng Tài nguyên&Môi trường Trần Hồng
Hà phải bay ra Hà tĩnh ngày 28.4 thị sát viêc xả thải
của Formosa để nhằm xoa dịu dư luận. Tại
đây Trần Hồng Hà đă tuyên bố, „pháp luật VN
không chấp nhận việc đặt ống ngầm xả
thải.” Như thế ông đă phủ nhận lời của
người dưới quyền ông là Thứ trưởng
Vơ Tuấn Nhân chỉ vài ngày trước. Ngoài ra ông Hà c̣n nhận
khuyết điểm để cuộc điều tra chậm
chạp…[111]
***
Tại sao mới chỉ vài năm trước
Nguyễn Phú Trọng đă trách móc và rao giảng „đạo
đức cách mạng“ tại Hội nghị Cán bộ
toàn quốc với sự tham dự của trên 1000 cán bộ
cao cấp ngày 27.2.12: “ Bây giờ trong Đảng cũng có
sự phân hóa giàu - nghèo, có những người giàu lên rất
nhanh, cuộc sống cách xa người lao động; liệu
rồi người giàu có nghĩ giống người nghèo
không? „ và „ người sống trong lâu đài nghĩ khác
người ở trong nhà tranh.“, „mai kia Đảng này sẽ
là đảng của ai?”[112]
Nhưng chỉ
trong vài năm ngồi trong lâu đài quyền lực và
hưởng thịt, cá loại ngon, sạch không phải trả
tiền, nên ḷng Nguyễn Phú Trọng đă nguội lạnh,
vô cảm trước ngư dân thất nghiệp chịu cảnh
đói rách v́ thảm họa cá biển và nhân dân nhiều
nơi có thể bị ăn cá và mắm độc. Chẳng
những thế ông vẫn đủng đỉnh tới
thăm Ban giám đốc tỉ phú Dollar Formosa Hà tĩnh và
khen ngợi cách làm ăn của họ, chẳng thèm đoái
hoài tới tiếng than ngất trời của dân lành, mặc
dầu gần một tháng vẫn không có cơ quan nào của
đảng lẫn nhà nước t́m ra nguyên nhân cá chết
hàng loạt!
Trong một xă hội pháp trị theo Dân chủ
đa nguyên th́ khi một cá nhân, tổ chức hay xí nghiệp
đang bị điều tra, người có trách nhiệm
trong nhà nước không được phép có những hành
động gây cản trở
hoặc can thiệp công cuộc điều tra. Trong vụ cá chết hàng loạt ở
duyên hải nhiều tỉnh miền Trung từ đầu
tháng 4 và tập đoàn Formosa đang trở thành đối
tượng điều tra của các cơ quan có thẩm
quyền. Nhưng người cầm đầu chế
độ là TBT Nguyễn Phú Trọng đă cố t́nh lại
thăm và gặp Ban giám đốc Formosa ngày 22.4 và c̣n khen ngợi
thành quả kinh doanh của công ti Đài loan này. Như
thế Nguyễn Phú Trọng đă lợi dụng uy quyền
riêng để cản trở, làm đ́nh hoăn cuộc điều
tra và c̣n tạo cơ hội để Formosa xóa sạch các
tang chứng !
Trong dịp này nhiều tổ chức, nhân
sĩ và chuyên viên đă công khai lên tiếng:
“Đây là một tệ nạn chính trị
hết sức kinh tởm. Vụ Formosa bộc lộ rơ ràng
thói vô cảm và vô trách nhiệm của nhà cầm quyền
CS đối với lợi ích quốc gia, cuộc sống
dân lành. Nó cũng cho thấy sự bất lực và chậm
chạp của cả một hệ thống quản lư nhà
nước từ trung ương đến địa
phương trước một quốc nạn có tầm mức
to lớn chưa từng thấy. Sự chậm trễ ấy
đă tạo điều kiện cho nghi can kịp xoá hết
dấu tích tội lỗi. Nó cũng hé lộ nhiều thế
lực bao bọc nghi can, che giấu sự thật, đánh
lừa dư luận qua những phát ngôn đầy hàm ư hay
cố mập mờ của một số quan chức cấp
bộ lẫn tỉnh và nhất là qua hành vi ủy lạo
tinh thần hà hơi tiếp sức của người
đứng đầu đảng Cộng sản đối
với tập đoàn Formosa đầy thành tích bất hảo.”[113]
Những ngày Chủ nhật trong tháng 5 nhân
dân các giới -đi đầu là trí thức, thanh niên và
đảng viên tiến bộ- đă xuống đường
ở HN, Sài g̣n và nhiều nơi khác đ̣i “Trả lại
biển xanh cho chúng tôi, chúng tôi chọn tôm cá”. Mọi người đang đồng
thanh đ̣i:
- Nhân dân muốn biết rơ nhanh và công khai thủ
phạm đă gây ra thảm trạng cá chết hàng loạt.
Phải chấm dứt ngay những nguyên nhân gây ra thảm
họa môi trường!
- Bồi thường thiệt hại cho
ngư dân và các cơ sở du lịch!
- Công khai các cơ quan và cá nhân nào đă cố
t́nh làm chậm, làm sai, đánh lạc dư luận và phải
chịu trách nhiệm trực tiếp trước nhân dân!
***
Sau thảm trạng môi
trường 4 tỉnh miền Trung ba tháng, nhưng tại
HNTU 3 vào đầu tháng 7.2016 trong suốt 5 ngày họp đă không có nói tới chủ
đề cực ḱ nóng bỏng này. Mặc dầu đây là thảm họa
môi trường lớn nhất ở VN, gây thiệt hại
sức khỏe, tài sản và môi trường sống trực
tiếp cho hàng triệu người dân bốn tỉnh Hà tĩnh,
Quảng b́nh, Quảng trị và Thừa thiên-Huế; đồng
thời c̣n tạo những nguy hại lâu dài về nhiều
mặt cho nhân dân cả nước. HNTU này diễn ra sau khi
Ban giám đốc Formosa công khai xin lỗi trong cuộc họp
báo ngày 30.6. và nhận bồi thường 11.500 tỉ đồng,
tương đương 500 triệu USD.[114] Nhưng ở đây
Formosa không chỉ là thủ phạm duy nhất, v́ nhiều
cơ quan Đảng và Nhà nước đă cấp giấy
phép đầu tư, hoạt động và kiểm soát công
ti Formosa cũng đều là thủ phạm. V́ chính các
cơ quan này đă lơ là và vô trách nhiệm trong các lănh vực
phụ trách, nên đă để cho Formosa làm ăn như một
vua con trong vùng. Trong cuộc họp báo
ngày 30.6 các Bộ trưởng đă cố t́nh tránh né không
làm rơ cơ quan và người phải chịu trách nhiệm.[115]
Trong khi ấy các cuộc biểu t́nh của
nhiều giới vào ba cuối tuần từ đầu
tháng 5.16 với các khẩu hiệu „Cá cần nước sạch“,
„Nước cần minh bạch“ đă bị công an mật
vụ chế độ toàn trị ngăn cấm, đàn
áp và chụp mũ. Trong
cuộc họp báo ngày 30.6 lần đầu tiên các quan chức
hiện diện xác nhận, Formosa là thủ phạm gây ra thảm
trạng môi trường ở miền Trung; nhưng cùng lúc
họ lại vẫn kết án gay gắt những cuộc
biểu t́nh của nhân dân
đ̣i Formosa phải sớm công khai minh bạch về nguyên
nhân dẫn tởi thảm trạng môi trường. Dịp
này Trương Minh Tuấn, Bộ tưởng 4 T vẫn
chụp mũ: „Tôi cũng nói thẳng rằng, có thế lực
thù địch đă lợi dụng t́nh trạng cá chết
này để công kích sự lănh đạo của Đảng,
sự quản lư của Nhà nước, thậm chí kích
động để gây mất trật tự công cộng,
gây bất an trong nhân dân.“[116]
Măi hơn nửa năm sau thảm trạng
môi trường 4 tỉnh miền Trung, ngày 17.10.16 trước
các “đại biểu cử tri” tại Ba đ́nh, Hoàn kiếm,
tức những đảng viên ngoan ngoăn chỉ biết xu
nịnh và bốc thơm, Nguyễn Phú Trọng đă không sợ
bị chất vấn nên đă bộc lộ:
“Trước kia chúng ta kêu gọi đầu
tư nhưng không nghĩ đến vấn đề môi
trường, không nghĩ đến đổ rác đi
đâu, nên bây giờ chúng ta phải
trả giá.”[117]
Lời xác nhận trên của người
cầm đầu chế độ toàn trị đă nh́n nhận
cung cách suy nghĩ, quyết định và hành động
công việc nước theo lối ăn xổi ở th́,
bóc ngắn cắn dài, xuất phát từ bệnh kiêu ngạo
quyền lực, không cần nghe ư kiến của các chuyên
viên cũng như nhân dân. Lời
xác nhận này có khác nào như người chủ nhà đă
xây nhà mà không xây cầu tiêu, không lập hệ thống dẫn
nước thải! Xây nhà máy sản xuất thép không tính tới
chất thải độc hại! Xây hàng trăm đập thủy điện
không tính tới việc đồng ruộng mất nước,
nhân dân thiếu nước sinh hoạt, nhưng khi mưa lũ
lại trở thành đại họa cho nhân dân! Bất kể
tới lời can ngăn của cố Đại tướng
Vơ Nguyên Giáp, nhiều tướng lănh và chuyên viên những
người cầm đầu chế độ toàn trị
đă cho BK xây các nhà máy khai thác Bauxit ở Tây nguyên từ
năm 2009 bất kể tới hậu quả môi trường
và an ninh quốc pḥng! Nay tới Formosa!
Đây là sự thông minh hay chính là sự ngu
dốt và thái độ kiêu ngạo quyền lực của
Nguyễn Phú Trọng và các đại quan đỏ trong
BCT? Chính Phạm Văn Đồng,
TT đầu tiên và lâu đời nhất của chế
độ toàn trị đă phải nh́n nhận là, sự
ngu dốt và thái độ kiêu ngạo quyền lực của
những người cầm đầu đă gây ra những
hậu quả thảm khốc cho nhân dân trong giai đoạn
đó.
T́nh trạng này hiện nay c̣n tệ hại
hơn, ngay Nguyễn Phú Trọng đă phải nh́n nhận! Ông Trọng c̣n nói “bây giờ chúng
ta phải trả giá”. Nhưng “chúng ta” ở đây là ai? Có
phải Nguyễn Phú Trọng và các đại quan trong BCT và
TUĐ đang sống vương giả và ngồi trong những
biệt thự an toàn ? Chính thái độ ăn xổi ở
th́ và bệnh kiêu ngạo quyền lực của họ
đă dẫn tới công ti Formosa gây thảm họa môi
trường cho bao nhiêu triệu nhân dân bốn tỉnh miền Trung từ
đầu tháng 4. 2016 và đang phải hứng chịu cảnh
thất nghiệp, bệnh tật và đói nghèo. Họ chia
sẻ sự cơ hàn với nhân dân như thế nào?
Khi thảm họa môi trường do Formosa
gây ra sau mấy tuần hàng triệu nhân dân điêu đứng
lo âu, nhưng TT Nguyễn Xuân
Phúc, Thường trực BBT Đinh Thế Huynh khi đi
qua những vùng này vẫn ngoảnh mặt làm thinh; c̣n
người cầm đầu chế độ toàn trị
Nguyễn Phú Trọng lại đủng đỉnh tới
thăm hỏi và khen ngợi Ban giám đốc Formosa và chẳng
thèm màng tới nạn nhân của Formosa! C̣n Chủ tịch nước Trần
Đại Quang th́ trước sau vẫn im thin thít. Trong
buổi QH khai mạc Ḱ họp thứ 2 ngày 20.10.16 Ủy
viên BCT, Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc (MTTQ)
-cánh tay dài của ĐCS- Nguyễn
Thiện Nhân cho biết, “đến nay vẫn chưa có
cơ quan, tổ chức và cá nhân nào trong hệ thống quản
lư Nhà nước có liên quan đứng ra nhận lỗi và
chịu trách nhiệm”.[118] Mặc dầu Nguyễn Xuân Phúc vẫn lớn
tiếng là “Chính phủ phục vụ”! Rơ ràng là thái độ
cao ngạo quyền lực từ cấp lănh đạo trở
xuống!
Nếu tứ trụ Nguyễn Phú Trọng,
Trần Đại Quang, Nguyễn Xuân Phúc và Nguyễn Thị
Kim Ngân thực t́nh nghiêm túc với chính ḿnh, khi đối
chiếu với những tiêu chuẩn cao ṿi vọi để
chọn lựa cán bộ cao cấp mà chính họ đă
đưa ra trong HNTU 11 (5.15) th́ chính họ phải thấy
hết sức rơ ràng là, họ đă hoàn toàn vô trách nhiệm
trước thảm họa môi trường do Formosa gây ra!
„Kêu gọi đầu tư nhưng không
nghĩ đến vấn đề môi trường, không
nghĩ đến đổ rác đi đâu!“ Lời nh́n nhận
trên của TBT Nguyễn Phú Trọng có tầm quan trọng
đặc biệt. Nó bạch hóa lối suy nghĩ cực
ḱ thiển cận và phong thái hành động vô trách nhiệm
của những người có quyền lực cao nhất
trong chế độ toàn trị khi quyết định mời
gọi các công ti nước ngoài đầu tư vào VN.
Đây là những quyết định ở cấp cao nhất
là BCT và BBT và được sự cố vấn của các
Ban trong đảng và các Bộ trong CP. Các quyết định
liên quan tới chương tŕnh FDI nói chung, đặc biệt
các công tŕnh FDI có vốn đầu tư cao mang tầm vóc
chiến lược, không chỉ có ư nghĩa thuần kinh tế,
mà nó c̣n liên hệ trực tiếp tới nhiều lănh vực chính trị, an ninh-quốc pḥng, kĩ thuật, môi
trường và sức khỏe của nhân dân.
Nhưng khi để Formosa đầu
tư cả chục tỉ USD vào VN, Bộ chính trị
đă quyết định theo tiêu chuẩn nào? Nguyễn Phú
Trọng đă trả lời : „Kêu gọi
đầu tư nhưng không nghĩ đến vấn
đề môi trường, không nghĩ đến đổ
rác đi đâu.“ Như vậy
là các tỉ Dollar đă làm họ chóa mắt, nên đă vội
vàng nhắm mắt bỏ qua các yếu tố cực ḱ quan
trọng khác là an ninh-quốc pḥng, kĩ thuật, môi trường
và sức khỏe của nhân dân. Như vậy khi quyết
định mời Formosa vào đầu tư, những
người có quyền lực trong BCT đă đặt sự
tồn tại của chế độ và cái ghế của
chính họ, ích kỉ cá nhân lên hàng đầu. Chỉ mong
càng có nhiều Dollar vào càng nhanh càng tốt! Chương tŕnh FDI là một chủ
trương rất lớn được đề cao
trong các ĐH đảng, nhưng trong thực hành th́ BCT
đă vô trách nhiệm cùng cực, hoàn toàn không có một kế
hoạch đúng đắn và khoa học để tạo
những lợi ích thực sự cho đất nước
và tránh những hậu quả tai hại cho nhân dân. Chính
điều này người cầm đầu chế độ
toàn trị Nguyễn Phú Trọng đă công khai xác nhận
như trên!
Nay trong khi hàng triệu người dân phải
hứng chịu hậu quả do thảm họa môi trường,
phải trả giá bằng thất
nghiệp, bệnh tật mà nguyên do từ những quyết
định sai lầm và thái độ cực ḱ vô trách nhiệm
của BCT, đứng đầu là Nguyễn Phú Trọng.
Nhưng khi nhân dân đ̣i những người có quyền lực
đă tiếp tay gây ra thảm họa môi trường phải
có những chính sách đền bù thích đáng và biện pháp
nghiêm khắc với Formosa, th́ bọn quan độc ác này
đă không biết ăn năn, không chịu xin lỗi, lại
c̣n cho báo chí và chính quyền địa phương chụp
mũ xuyên tạc, cho công an ngăn cản và đe dọa
“không bảo đảm an ninh cho người đi khiếu
kiện”[119] Chẳng
những thế Nguyễn Phú Trọng c̣n để công an
giam giữ và ṭa án nhân dân bỏ tù nhiều người
đi biểu t́nh! Họ phục vụ đất nước,
bảo vệ quyền lợi nhân dân, hay đă tự chuyển
biến xấu chỉ lo phục vụ quyền lợi
riêng cho chính ḿnh, nên đă sẵn sàng bảo vệ các nhà
đại tư bản nước ngoài? Nếu c̣n
lương tâm có lẽ ông Trọng nên đọc bài thơ
của cô giáo Trần Thi Lam ở Hà Tĩnh đă sáng tác vào
dịp này: „Đất
nước ḿnh ngộ quá phải không anh?“
„Đất nước ḿnh buồn quá phải
không anh
Biển bạc,
rừng xanh, cánh đồng lúa biếc
Rừng đă
hết và biển th́ đang chết
Những con
thuyền nằm nhớ sóng khơi xa...“
http://nhathothaiha.net/wp-content/uploads/2016/04/dat-nuoc-minh-ngo-qua-phai-khong-anh-tin8-5.jpg
Chỉ trong 20 câu thơ
không chỉ trách móc những người có trách nhiệm với
đất nước đă làm cho nhân dân phải đói khổ,
nhục nhằn, môi trường bị tàn phá, c̣n bị
khinh rẻ và đàn áp. Bài thơ c̣n nhắc nhở mỗi
cá nhân, trước những nguy vong của đất
nước phải can đảm cùng nhau gánh vác trách nhiệm
làm thay đổi t́nh h́nh. Bài thơ „Đất nước
ḿnh ngộ quá phải không anh?“ là lời gọi rất chân
thành và thúc giục mọi người, mọi giới hăy
can đảm cùng nhau lên đường làm nhiệm vụ
của người công dân VN là làm lại lịch sử,
đưa dân tộc ta tới quang vinh trong Thế kỉ
21!
VI. Mô h́nh phát triển theo
„Kinh tế Thị trường
định hướng Xă hội chủ nghĩa“
Kết quả thực tiễn:
Doanh nghiệp Nhà nước thua lỗ, lăng phí nguồn ODA,
bùng nổ nợ
công, tham nhũng và lợi ích nhóm
Trong suốt thời ḱ từ
1986 tuy đề cao là „đổi mới“ trong kinh tế,
nhưng sợi chỉ đỏ trong các lănh vực công nghiệp
trước sau vẫn là DNNN. Trước đây thường
được gọi là Quốc doanh. Nay v́ t́nh thế bất
đắc dĩ nên phải nh́n nhận sự hiện diện
của các loại kinh tế tư nhân VN và FDI; tuy
nhiên trước sau hệ thống DNNN được xếp
vào thành phần tối ưu và giữ trọng trách „chủ
đạo“, tức là làm nền tảng cho các hoạt
động kinh tế. Chính sách này có thể ví như
một con bạch tuộc. Trong thời hùng mạnh nó
vươn các chân tới mọi hang cùng ngơ hẻm, nay yếu
sức nên phải rút chân ra một số nơi, nhưng vẫn
quyết bám chặt ở những địa bàn hiểm yếu. Cách thay đổi nhỏ
giọt và trong điều kiện ngặt nghèo như thế
thể hiện tư duy và tâm lí vẫn như cũ của
một số người có quyền lực liên quan tới
các hoạt động kinh tế. Ở đây là chủ nghĩa
Marx đầy thành kiến đối với các sinh hoạt
kinh tế của tư nhân, đặc biệt thành phần
tư bản. Ở đây cũng là tuân thủ tư tưởng
giành và giữ quyền lực độc quyền cho
ĐCS của Lenin đă thực hiện ở Nga và Liên xô cũ
trước đây và được HCM vận dụng vô
điều kiện trong việc cướp và giữ chính
quyền độc quyền cho ĐCS từ 1945. Điều
này phản ảnh tâm lí không tin dân và không dám nh́n nhận những
thành công không thể chối căi của nhiều quốc gia
đă từ bỏ các DNNN và trao lại các hoạt động
kinh tế cho nhân dân.
Căn cứ vào các Nghị
quyết của các ĐH và các Luật về DNNN, hệ
thống DNNN có nhiệm vụ vừa hướng dẫn vừa
kiểm soát toàn bộ sinh hoạt kinh tế và trực tiếp
dưới quyền lănh đạo của ĐCS, trong thực
tế là BCT và BBT. Các bộ và cơ quan của CP có
nhiệm vụ thi hành các quyết định của BCT
trong các DNNN. Nhờ vậy, hệ thống DNNN giữ vai
tṛ như một bộ máy tuần hoàn trong cơ thể
truyền dinh dưỡng, dưỡng khí và máu cho các bộ
phận. Nó c̣n giữ nhiệm vụ cực ḱ quan trọng là
định hướng và kiểm soát nền kinh tế
trong cái khung của một chế độ toàn trị. Muốn
như vậy th́ hệ thống DNNN phải nắm các
động mạch chính của nền kinh tế-tài chánh.
Như hệ thống ngân hàng, các lănh vực công nghiệp
liên quan tới quốc pḥng, an ninh như truyền thông (báo
chí, điện thoại…), chế tạo vũ khí, khai thác
quặng mỏ, dầu khí, xây dựng các hạ tầng
cơ sở như đường xá, cầu cống, phi
trường, hải cảng và các trung tâm điều phối
nông, lâm, thủy sản…
Mục tiêu và quan điểm
này đă được tŕnh bày trong nhiều ĐH từ
1986. Nó thể hiện rơ hơn trong ĐH 8 (1996) khi họ
đưa ra chủ trương đầy tham vọng là,
công nghiệp hóa, hiện đại hóa với kinh tế
tri thức để „đến năm 2020 cơ bản trở
thành một nước công nghiệp.“ [120]
Đặc
biệt nó được định nghĩa và xác định
lănh vực hoạt động rất rơ ràng trong Báo cáo Chính
trị tại ĐH 9 (2001):
„Kinh tế nhà nước phát huy
vai tṛ chủ đạo trong nền kinh tế, là lực
lượng vật chất quan trọng và là công cụ
để Nhà nước định hướng và điều
tiết vĩ mô nền kinh tế. Doanh nghiệp nhà nước
giữ những vị trí then chốt; đi đầu ứng
dụng tiến bộ khoa học và công nghệ; nêu
gương về năng suất, chất lượng, hiệu
quả kinh tế - xă hội và chấp hành pháp luật.“[121]
Những người cầm
đầu Đảng khi ấy đă đưa ra tham vọng
rất cao là, KTNN không chỉ giữ „chủ đạo“
trong việc tạo mặt vật chất làm phương
tiện thiết yếu để bảo vệ chế
độ; cả về mặt chất lượng và
đạo đức nghề nghiệp, các DNNN c̣n là những
đơn vị kinh tế có tŕnh độ công nghệ kĩ
thuật hàng đầu, năng suất lao động cao
và tạo ra được những sản phẩm có chất
lượng tốt. Không những thế, vẫn theo tham vọng
của họ, sự hoạt động của các DNNN
không chỉ đem lại sự phồn vinh cho xă hội mà
c̣n làm gương mẫu trong việc „chấp hành pháp luật“! Họ đă vẽ ra một bức
tranh tuyệt vời về Kinh tế Nhà nước (KTNN)
xuyên qua các DNNN! Khi nuôi tham vọng
cực ḱ cao này họ đă ngủ mơ, nhưng cũng
có thể họ đă quá tự tin theo tâm lí kiêu ngạo CS,
bất kể các qui luật khoa học và bất chấp cả
những kinh nghiệm thất bại từ các mô h́nh Nhà
nước làm kinh tế trong thời ḱ trước đây
ở VN cũng như ở nhiều nước CS trước
đây.
Để
thực hiện giấc mộng kê vàng này, trong ĐH 9 họ
quyết định thành lập các Tập đoàn kinh tế
từ sự sát nhập các Tổng công ti và công ti DNNN:
„Trong
5 năm tới, cơ bản hoàn thành việc củng cố,
sắp xếp, điều chỉnh cơ cấu, đổi
mới và nâng cao hiệu quả hoạt động các doanh
nghiệp nhà nước hiện có, đồng thời phát
triển thêm doanh nghiệp mà Nhà nước đầu
tư 100% vốn hoặc có cổ phần chi phối ở
một số ngành, lĩnh vực then chốt và địa
bàn quan trọng. Xây dựng một số tập đoàn
kinh tế mạnh trên cơ sở các tổng công ty nhà
nước, có sự tham gia của các thành phần kinh tế.“
[122]
Mô h́nh Tập đoàn kinh tế
bắt chước các Cheabol của Nam Hàn. Có lẽ ư tưởng
này được thành h́nh sau các cuộc đi thăm Nam
Hàn của nhiều chính trị gia cấp cao của đảng,
đặc biệt là Đỗ Mười vào năm 1995. Sự
phát triển nhanh chóng và cức mạnh của nhiều
Cheabol Nam Hàn đă gây cho họ những ấn tượng
mạnh. V́ thế họ cũng muốn thành lập một
số Tập đoàn kinh tế như những „quả
đấm thép“ trong kinh tế. Chủ trương này dựa
trên Luật DNNN năm 2003. [123]
Theo
Điều 9 của Luật này, việc thành lập các Tập
đoàn và Tổng công ti cũng như bổ nhiệm các Ban
quản trị các DNNN thuộc quyền TT và các Bộ.
Như thế các cơ quan CP như một cơ quan tổng
chỉ huy KTNN, đặt trực tiếp dưới quyền
TT. Đấy là mặt tổ chức nhân sự.
Chế độ toàn trị
c̣n giành những ưu đăi đặc biệt cho DNNN cả
về vốn tư bản, đất đai và các tài
nguyên. Các DNNN được sử
dụng
ngân sách quốc gia, được vay tiền của các
ngân hàng với lăi suất rất thấp, có quyền phát
hành (bán) trái phiếu ở trong và ngoài nước với sự
bảo lănh của Nhà nước, không phải trả tiền
đất để xây các xí nghiệp, được
hưởng ưu đăi quan thuế trong việc xuất
nhập khẩu sản phẩm, chỉ phải đóng thuế
mức rất thấp so với các doanh nghiệp
tư. Quan trọng khác nữa,
các DNNN được độc quyền sử dụng
các nguồn vốn ODA, tổng số lên tới 78 tỉ
USD trong gần ba thập niên qua.
Với việc hưởng các
ưu đăi và độc quyền đó, có thể ví các
DNNN như những đứa con cưng của một tỉ
phú, vừa có tiền bạc lại đầy quyền lực,
được nuông chiều đủ thứ, lại c̣n
được bảo vệ không ai dám đụng chạm
tới, kể cả pháp luật!
Các cậu công tử này đâu cần phải học
hành, đâu cần phải lao động, chỉ việc
ngồi mát ăn bát vàng! Đây không phải là chuyện giả
tưởng hay bức tranh siêu thực, nhưng lại là một
sự thực 100% suốt mấy thập kỉ ở VN
dưới chế độ toàn trị!
Độc
quyền trong chính trị đă tác hại nguy hiểm
như thế nào ở nhiều nước. Độc quyền
cả chính trị lẫn kinh tế c̣n gây thiệt hại
khủng kiếp hơn nữa cho người dân. H́nh ảnh
kinh tế kiệt quệ, nhân dân sống trong nghèo khổ,
trong khi cán bộ trung và cao cấp hưởng giầu sang
và tham nhũng ở cựu Liên xô và Đông Âu cho tới cuối
thập niên 80 không ai có thể quên được.
Tại VN sự
độc quyền của các DNNN đă tiêu giệt yếu
tố cạnh tranh, khiến toàn bộ kinh tế không thể
vươn lên được. V́ cạnh tranh lành mạnh là
yếu tố tối cần thiết để thúc đẩy
toàn bộ nền kinh tế tiến lên, đồng thời
bảo vệ các quyền lợi chính đáng của người
tiêu dùng. Nhưng ở VN trong khi các doanh nghiệp tư bị
chèn ép th́ các DNNN ngồi chơi xơi nước, lăng phí tiền
bạc, tài nguyên và thời gian! Vào cuối 2013 các tập
đoàn và tổng công ti nhà nước chiếm thị phần
áp đảo trong toàn bộ kinh tế. Như Tập
đoàn Điện (bao gồm EVN và PVN) chiếm 80% thị
phần, Tập đoàn Than và khoáng sản 98%, Tập
đoàn Dầu khí 100%, Tập đoàn vận tải
đường sắt (100%), Tổng công ti hàng không VN
(61,4%), Tập đoàn viễn thông (gồm VNPT và Viettel)
(81,5%).[124]
Số liệu tài chính tổng
hợp của các Tập đoàn và Tổng công ti Nhà nước
(tỉ đồng)[125]
Năm |
2006 |
2007 |
2010 |
2011 |
2013 |
Tổng tài sản có |
751.698 |
767.151 |
1.799.317 |
2.093.907 |
2.639.916 |
Tổng tài sản nợ |
751.698 |
767.151 |
1.799.317 |
2.093.907 |
2.639.916 |
Vốn chủ sở hữu |
317.647 |
406.975 |
653.166 |
727.277 |
1.044.769 |
Các khoản phải trả |
419.991 |
51.904 |
1.088.290 |
1.292.400 |
1.514.915 |
-
Dài hạn |
226.478 |
262.061 |
- |
604.191 |
- |
-
Ngắn hạn |
193.933 |
256.979 |
- |
688.202 |
- |
Doanh thu |
504.253 |
625.027 |
1.488.273 |
1.577.311 |
1.709.134 |
Lợi nhuận trước thuế |
56.083 |
67.404 |
16.291 |
135.111 |
181.530 |
Thua lỗ |
- |
- |
1.116 |
5.823 |
- |
Số doanh nghiệp (đơn vị) |
95 |
95 |
85 |
91 |
108 |
Tỉ lệ nợ/vốn chủ sở
hữu |
1,4 |
1,3 |
1,7 |
1,8 |
1,45 |
Số liệu này không bao
gồm Vinashine
Nguồn: Bộ Tài chính (dẫn
tại Matheson, 2013, tr. 7; Thời báo VN, 2014)
Dưới
những điều kiện của chế độ toàn
trị, mọi quyết định từ chính trị, kinh
tế, pháp luật tới văn hóa xă hội chỉ là quyết
định của một số người có quyền lực
trong BCT. Trên họ không c̣n ai hết, không có những cơ
chế kiểm soát công khai và nghiêm túc, không có báo chí độc
lập và hệ thống một xă hội dân sự độc
lập. Nên những người này có thể ban bố các
chính sách, đạo luật theo ư muốn của họ và
khi cần thiết có thể giải thích tùy tiện, vo
tṛn, bóp méo và thậm chí làm vô hiệu hóa các luật pháp hay
quyết định trước đây của chính họ,
nếu thấy rằng nó bất lợi hay nguy hiểm cho
địa vị và quyền lực của họ. Điều
này càng dễ xẩy ra khi đụng chạm tới quyền-tiền,
hai động lực có sức lôi cuốn rất mạnh
thúc đẩy ḷng tham của con người, nhất là những
người có điều kiện biến quyền lực
thành tiền bạc, hoặc dùng tiền bạc để
mua quyền lực!
Cách tổ
chức và điều hành của hệ thống DNNN, nhất
là từ gần hai thập niên vừa qua với việc ra
đời các tập đoàn và tổng công ti nhà nước,
là những dẫn chứng cụ thể rơ rệt nhất
về sự liên hết như h́nh với bóng của quyền
lực và tiền bạc dưới chế độ toàn
trị ở VN. Các
giám đốc và hội đồng quản trị (hội
đồng thành viên) của các tập đoàn và tổng
công ti nhà nước do TT chỉ định. Các cơ quan
này có quyền hành rất lớn trong mọi quyết định
liên quan tới hoạt động của tập đoàn và
tổng công ti. Từ việc chọn lựa nhân sự then
chốt, đầu tư, vay tiền, gọi thầu tới
việc liên kết kinh doanh với bên ngoài. Họ đều
là những cán bộ có thế lực, nhưng hầu
như không có kiến thức và kinh nghiệm quản trị
các công ti lớn. Một khi quyền nhiều, nhưng trách
nhiệm rất ít th́ dễ sinh ra lạm dụng những
ǵ có lợi cho bản thân, gia đ́nh và vây cánh. Từ đó
dẫn tới những lăng phí hàng trăm, hàng ngàn tỉ
đồng, tự do xà xẻo các công tŕnh. Muốn làm giầu
bất chính nhanh và gọn gàng th́ phải lập phe cánh che chở và bảo vệ lẫn
nhau. Qua đó sẽ h́nh thành các nhóm lợi ích. V́
quyền lợi ích kỉ, các nhóm này sẽ lợi dụng
quyền lực kết hợp với nhau ngay từ giai
đoạn soạn thảo các kế hoạch có lợi cho
phe cánh của ḿnh.
Trong vụ PMU 18 thứ trưởng
Giao thông vận tải Nguyễn Việt Tiến cùng cánh vế
với bộ trưởng Giao thông vận tải Đào
Đ́nh B́nh đă lôi kéo cả con rể TBT Nông Đức Mạnh
vào làm. Nhờ vào uy quyền lớn
nên họ đă được giao nhiều dự án xây dựng
hạ tầng với số vốn cả hàng ngàn tỉ
đồng từ nguồn ODA và lập ra các công ti con làm
sân sau để thân nhân và vây cánh thao túng. Sự thỏa hiệp
đen tối quyền lực và chia chác tiền bạc
trong vụ Vinashin lại càng khủng khiếp
hơn nữa. Nguyễn Tấn Dũng dùng uy quyền TT
để giao cho người đồng hương Phạm
Thanh B́nh làm Giám đốc Vinashin, được Ngân hàng Nhà
nước cung cấp vốn cả hàng trăm ngàn tỉ
đồng, đẻ ra hàng trăm công ti con, đầu
tư vào những công tŕnh ngoài cả lănh vực đóng tầu
thủy, như mở cả ngân hàng và công ti du lịch...Sau
nhiều năm làm ăn thua lỗ khổng lồ lên tới
cả gần 100.000 tỉ đồng, nhưng Nguyễn Tấn
Dũng vẫn b́nh chân như vại. Hai người có quyền
lực nhất khi ấy là Nguyễn Phú Trọng và Nguyễn
Tấn Dũng đă ngấm ngầm thỏa hiệp với
nhau hai ghế TBT và TT, như đă tŕnh bày trong Chương
sáu, XI.
PVN và vụ án Đinh La
Thăng
Tập đoàn đầu khí VN (Petro VN, PVN)
là một công ti Nhà nước lớn nhất. Năm 2015
đạt tổng doanh thu là 293.439 tỉ đồng,
đóng góp vào NSNN là 93.000 tỉ đ. trong tổng số thu
NSNN là 911.100 tỉ đ.; nghĩa là chiếm tới gần
12% tổng thu của NSNN.[126]
Như vậy PVN đóng một vai tṛ rất quan trọng
trong toàn bộ nền kinh tế VN. Năm 2017 PVN khai thác
15,52 triệu tấn dầu thô, 9,89 tỉ m³ khí; sản xuất 20,58 tỉ
kWh điện, 1,65 triệu tấn phân đạm, 6, 24 triệu
tấn xăng dầu. [127]
Theo Quyết
định 924-QĐ-TTg ngày 18.6.2010 đây là Tập đoàn
độc quyền trong khai thác, vận chuyển, chế
biến, lưu trữ dầu hỏa và khí đốt; ngoài
ra c̣n độc quyền các dịch vụ về dầu
khí ở trong và ngoài nước. Quyết định trên
c̣n giành cho PVN độc quyền kinh doanh, phân phối các sản
phầm dầu khí và các nguyên liệu hóa chất dầu khí;
xuất nhập khẩu vật tư, thiết bị và sản
phầm dầu khí; khảo sát, thiết kế, xây dựng,
khai thác, sửa chữa các công tŕnh, phương tiện phục
vụ dầu khí dân dụng. Không những thế PVN c̣n có
quyền đầu tư, sản xuất, chế biến,
kinh doanh nhiên liệu sinh học, điện và phân bón; đầu
tư khai thác than và khoáng sản tại nước ngoài.
Đặc biệt nữa, PVN c̣n được hoạt
động kinh doanh cả những lănh vực ngoài dầu
khí, như: đầu tư, kinh doanh bất động sản;
kinh doanh khách sạn, du lịch; đầu tư, khai thác, kinh
doanh các cảng, vận tải biển, sông và hàng không và
đường bộ…[128]
Như
thế cho thấy PVN không chỉ là một „vua“ trong lănh vực
dầu khí mà c̣n bao thầu cả trong nhiều lănh vực
khác! Từ khi trở thành tập đoàn lớn nhất,
PVN trong nhiều năm liên tiếp đă „sai phạm rất
nghiêm trọng“ trong việc sử dụng vốn, đầu
tư hàng chục ngàn tỉ đồng vào nhiều lănh vực
nhưng không có hiệu quả, phải nằm đắp
chiếu và thua lỗ. Nhất là dưới thời
Đinh La Thăng làm Giám đốc và Bí thư đảng ủy
Tập đoàn PVN (2005-2011) và các người kế vị
những năm sau này. Như trong Thông báo của Ủy
ban Kiểm tra TU ngày 27.4.17
do Trưởng ban và UVBCT Trần
Quốc Vượng công bố.[129]
Khi đó là thời có nhiều quyền lực
của các UVBCT, như TT Nguyễn Tấn Dũng, Nguyễn
Phú Trọng (CTQH và TBT), Nguyễn Sinh Hùng (Phó TT thứ nhất
và CTQH, Trương Tấn Sang (Trưởng ban Kinh tế
TU, Thường trực BBT và CTN), Tô Huy Rứa (Trưởng
ban Tuyên giáo và Trưởng ban Tổ chức), Nguyễn Xuân
Phúc (Bộ trưởng Chủ nhiệm Văn pḥng CP, Phó
TT)…Điều
vô cùng ngạc nhiên là, mặc dầu đă xẩy ra nhiều
sai phạm rất nghiêm trọng trong suốt nhiều
năm, nhưng Đinh La Thăng vẫn trở thành ngôi sao
sáng chính trị liên tiếp trên 10 năm: Là UVTU từ khóa 10
(2006), sau khi thôi Giám đốc PVN lại lên nắm chức
bộ trưởng Giao thông vận tải (2011-16), UVBCT Khóa
12 và Bí thư Thành ủy thành phố HCM (tới tháng 5.17),
đại biểu QH các khóa 11-14 (tới 5.17).
V́ vậy một số câu hỏi rất
quan trọng được nêu ra trong các hoạt động
sai phạm rất nghiêm trọng của PVN, từ thời
Đinh La Thăng làm giám đốc và cả những người
kế vị, nhưng tại sao vị thế chính trị
của ông vẫn lên như diều trong thời gian rất
dài đến cả chục năm liên tiếp? V́ nó hoàn
toàn đi ngược lại những tiêu chí chọn lựa
và giao phó công việc cho „những cán bộ cấp chiến
lược“ theo HNTU 11 Khóa 11 (5.15) dưới quyền Nguyễn
Phú Trọng đă đề ra:
„Kiên quyết không để lọt vào BCHTU
những người có một trong các khuyết điểm,
như: Bản lĩnh chính trị không vững vàng, không kiên
định đường lối, quan điểm của
Đảng, có biểu hiện cơ hội chính trị,
nói và làm trái Cương lĩnh, đường lối,
nguyên tắc của Đảng; tham vọng
quyền lực, xu nịnh, chạy chọt, vận động
cá nhân, tư tưởng cục bộ, phe cánh, lợi ích
nhóm… tham nhũng, tiêu cực lớn …không chấp hành sự
điều động, phân công của tổ chức; kê
khai tài sản không trung thực, có biểu hiện giầu
nhanh, nhiều nhà, nhiều đất, nhiều tài sản
khác mà không giải tŕnh rơ được nguồn gốc“ [130]
Ông Trọng đă từng nhấn mạnh,
công tác cán bộ là then chốt của các then chốt. Chả
lẽ suốt thời gian rất dài như vậy Nguyễn Phú Trọng, Nguyễn Tấn
Dũng, Trương Tấn Sang, Nguyễn Sinh Hùng, Tô Huy Rứa
và Nguyễn Xuân Phúc….ở những địa vị cao
như vậy cả trong đảng lẫn chính phủ lại
không biết rơ những sai phạm nghiêm trọng trong PVN và
Đinh La Thăng?
Phải phân biệt ở đây một số
trường hợp: Nếu họ không biết những ǵ
đă xẩy ra tại PVN th́ chứng tỏ họ không
đủ khả năng đảm nhiệm các trọng
trách. Nhưng nếu biết mà không dám nói, chứng tỏ họ
làm bù nh́n. Không những thế, nếu biết những cán
bộ cao cấp đă làm những „sai phạm rất nghiệm
trọng“ như Đinh La Thăng mà không dám cách chức lại
c̣n cất nhắc, chứng tỏ họ càng vô trách nhiệm
và chỉ lo củng cố quyền lực, chểnh mảng
nhiệm vụ, không cương quyết bảo vệ tài
sản của đất nước và quyền lợi của
nhân dân!
Nắm các địa vị quan trọng
trong đảng và chính phủ, họ phải chịu trách
nhiệm chính trị, trách nhiệm về pháp luật và
lương tâm đạo đức, v́ đă để cho
Đinh La Thăng và nhiều cán bộ cao cấp trong PVN hoạt
động sai phạm nghiêm trọng liên tiếp trong nhiều
năm. Do đó đúng ra Nguyễn Phú Trọng, Nguyễn Tấn
Dũng và các UVBCT đầy quyền lực nêu trên phải
công khai nhận trách nhiệm chính trị trước nhân
dân và phải xin từ chức. Không những thế, họ
c̣n phải chịu trách nhiệm về mặt luật pháp
đối với những thiệt hại cực lớn
cho ngân sách quốc gia và các tài sản của nhà nước.
Họ chủ trương DNNN làm chủ
đạo và giành nhiều ưa đăi, lại không có
cơ chế luật pháp nghiêm minh, không có báo chí độc
lập theo dơi, có khác nào như mời cán bộ tham nhũng
thả cửa hôi của. V́ thế tập đoàn PVN là
doanh nghiệp nhà nước lớn nhất đă có thể
dễ dàng làm thất thoát hàng trăm ngàn tỉ đồng
trong nhiều năm. Sự hoạt động của các tập
đoàn, trong đó có PVN, thuộc quyền của BCT và CP,
trong đó hai người đứng đầu là TBT Nguyễn
Phú Trọng và TT Nguyễn Tấn Dũng phải là hai
người chịu trách nhiệm cao nhất cả về
mặt chính trị lẫn mặt pháp luật. V́ các nghị quyết của các HNTU và quyết định
của CP đều qui định rơ thẩm quyền và
trách nhiệm của tập thể cũng như cá nhân phụ
trách. Chính Nguyễn Phú Trọng và Nguyễn Tấn Dũng
đă nhiều lần tuyên bố, cơ quan nào để xẩy
ra lăng phí và tham nhũng nghiêm trọng th́ người đứng
đầu cơ quan phải chịu trách nhiệm trước
đảng và nhân dân!
Riêng
trường hợp của Nguyễn Phú Trọng, một mặt
ông trương cờ với những tiêu chí thật cao trong
việc lựa chọn cán bộ cấp chiến lược
vào cấp cao nhất. Như “Ủy viên
BCT, BBT phải là những đồng chí thật tiêu biểu
của Ban chấp hành trung ương (BCHTU) về bản lĩnh
chính trị, phẩm chất đạo đức, trí tuệ,
ư chí chiến đấu, năng lực lănh đạo quản
lư“ và không „tham vọng quyền
lực, xu nịnh, chạy chọt, vận động cá
nhân, tư tưởng cục bộ, phe cánh, lợi ích
nhóm.“[131]
Nhưng mặt khác, chính ông lại dùng các thủ đoạn
để giành cho riêng ḿnh được xếp vào „trường
hợp đặc biệt“, đồng thời cô lập
Nguyễn Tấn Dũng bằng cách mua chuộc những
thân tín của ông Dũng, trong đó cho Đinh La Thăng vào
BCT và Bí thư Thành ủy thành phố HCM.
Nhưng
sau khi đă nắm vững ghế TBT thêm một nhiệm
ḱ th́ ông liền ra tay thanh toán những đối thủ
để trừ hậu hoạ, thậm chí đưa cả
đối thủ ra xét xử theo những bản án đă
định sẵn. Thủ đoạn nham hiểm này không
làm sạch bộ mặt của ông Trọng, mà chỉ bôi
đen thêm. Một người nổi tiếng lợi dụng
địa vị để tham nhũng quyền lực
trong suốt hơn thập kỉ vừa qua th́ không thể
chống tham nhũng quyền lực và tiền bạc
được. Tay đă nhúng chàm! V́ tham nhũng quyền lực
và tham nhũng tiền bạc như bóng với h́nh, chúng
nương tựa nhau, bảo vệ nhau. Đây mới là
nguy cơ của mọi nguy cơ đưa chế độ
toàn trị từng bước nhưng chắc chắn
rơi sâu xuống vực thẳm! Quyền và tiền
như đổ dầu vào lửa. Tới một thời
điểm thích hợp không c̣n xa, những quan tham nhũng
quyền lực và tham nhũng tiền bạc không thể
chung sống và cũng không thể nhượng bộ nhau!
Tại HNTU 5 Khóa 12 (5-10.5.17) Đinh La
Thăng đă bị cách chức UVBCT và Bí thư Thành ủy
thành phố HCM. Trong diễn văn khai mạc Hội
nghị Nguyễn Phú Trọng đă đưa ra câu hỏi
về t́nh trạng ngày càng thua lỗ và tham nhũng trong các
DNNN: “V́ sao những hạn chế,
yếu kém nêu trên đă được chỉ ra từ lâu
nhưng qua nhiều nhiệm kỳ đến nay t́nh h́nh vẫn
chậm chuyển biến, thậm chí có mặt c̣n trầm
trọng hơn?”
Là người cầm đầu BCT th́
đúng ra, Nguyễn Phú Trọng phải là người tiêu biểu nhất „của BCHTU về
bản lĩnh chính trị, phẩm chất
đạo đức, trí tuệ, ư chí chiến đấu,
năng lực lănh đạo quản lư“. Đây là những
điều kiện chính ông đă đặt ra làm nguyên tắc
chọn người vào BCT! Nhưng các DNNN đă được
BCT dưới quyền của ông cho tung hoành hoạt động
suốt bao nhiều năm qua, nay Nguyễn Phú Trọng lại
làm bộ ngây thơ đặt câu hỏi, „v́ sao“ các DNNN
đi đến nông nỗi như ngày hôm nay! Điều
này chứng tỏ Nguyễn Phú Trọng đă đóng kịch
giả bộ, làm như người mù ḷa không nh́n thấy
nguyên nhân; hoặc thừa nhận vai tṛ bất lực, chỉ
ngồi làm bù nh́n như ông b́nh vôi, càng già, càng ngồi lâu,
càng tồi!
Giả vờ quên thực tế, bỏ qua
những chuyện tầy đ́nh trước sau vẫn là
thái độ và mánh lới cực ḱ lươn lẹo của
người cầm đầu chế độ toàn trị.
Chính khi BK gia tăng chính sách bành trướng và thôn tính ở
biển Đông, Nguyễn Phú Trọng đă gạt phăng
và nói tỉnh bơ tại QH, „t́nh h́nh biển Đông không
có ǵ mới!“. Hay khi xẩy ra thảm trạng môi trường
cá chết trắng trên băi biển miền Trung do công ti
Formosa gây ra th́ Nguyễn Phú Trọng vẫn thản nhiên lại
thăm Ban giám đốc công ti này và sau đó lại c̣n nói
tỉnh bơ như một người bàng quang: „Trước
kia chúng ta kêu gọi đầu tư nhưng không nghĩ
đến vấn đề môi trường, không nghĩ
đến đổ rác đi đâu!“
Đối với những người hiểu
biết và có lương tri không ai có thể hiểu
được những lời tuyên bố trên thật vô cùng
lạ lùng như thế. „Bản lĩnh chính trị, phẩm
chất đạo đức, trí tuệ, ư chí chiến
đấu, năng lực lănh đạo quản lư“ của
người cầm đầu chế độ toàn trị
là như thế!!! Chính điều này Nguyễn Phú Trọng
đă đưa ra làm tiêu chuẩn để chọn lựa
và đánh giá các UVBCT !!!
***
Tổng kết lại, phân tích cặn kẽ
và nghiêm túc về thái độ, hành động và tư duy
diễn tiến từ ĐH 6 (1986) tới ĐH 12 (2016) của
những người cầm đầu toàn trị từ
Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, Lê Khả Phiêu,
Nông đức Mạnh đến Nguyễn Phú Trọng có
thể tóm lược là: Tuy miệng luôn luôn phải nói
„đổi mới“, nhưng trong thâm tâm vẫn tin tuyệt
đối vào chủ nghĩa Marx-Leninn và
đi theo con đường của Bác đă chọn. Theo
họ, đó là „sáng suốt“ và “uống nước nhớ
nguồn”, không phản bội người khai sáng và những
thế hệ đă hi sinh, như thế là vừa khôn ngoan,
vừa giữ được đạo lí của người
đi sau! Bất đắc dĩ phải thay đổi một
vài điều ở lănh vực này hay lănh vực khác chỉ
là v́ t́nh thế theo tiêu chí „Dĩ bất biến, ứng vạn
biến“!
Trong đó trước sau họ vẫn
không thèm đoái hoài tới nguyện vọng và khát vọng
rất chính đáng và bức thiết của nhân dân là ḥa giải
dân tộc thực sự để Bắc-Nam cùng nhau phát
triển nội lực, để xây dựng lại quê
hương từ đống tro tàn do bạo lực, hận
thù từ những cuộc chiến tranh tàn khốc và giai giẳng
để lại, tiến lên thành một quốc gia giầu
mạnh, nhân dân được hưởng hạnh phúc, sống
có nhân phẩm và tự do dân chủ! Họ cũng không thèm
đếm xỉa tới những thay đổi sâu sắc
của thế giới sau khi Liên xô sụp đổ, các
nước CS Đông Âu tan dă và TQ trỗi dậy trở
thành tân đế quốc đang đe dọa trực tiếp
VN, các nước trong khu vực và thế giới!
Trên đây là nền tảng căn bản
về thái độ, cách hành động và tư duy của
những người cầm đầu chế độ
toàn trị suốt trên 30 năm qua. Trong đó hai nhân vật
có trách nhiệm cao nhất là Đỗ Mười và Nguyễn
Phú Trọng, v́ họ đă và đang nắm độc quyền
lâu và tàn bạo nhất!
Họ không đủ tŕnh độ kiến
thức, sự sáng suốt cần thiết và thái độ
chân thành đáng lẽ ra phải có, để nhận ra và
hiểu rằng, mỗi thời đại phải có những
cái nh́n mới, những bước đi thích hợp; nếu
người đi trước làm sai th́ thế hệ sau phải
có trách nhiệm và can đảm thay đổi. Châm ngôn VN có
câu “con hơn cha là nhà có phúc”! Cũng với tinh thần này,
đáng lẽ ra họ phải dứt khóat chấm dứt
sự dối trá, lừa đảo và từ bỏ những
ư thức hệ đă bị thực tiễn chứng minh
là sai lầm; đồng thời thực tâm chọn con
đường mới để kiến thiết đất
nước và gây dựng hạnh phúc cho nhân dân. Đấy
mới chính là sáng suốt, biết đền bù
tương xứng những sự hi sinh của bao nhiêu triệu
người đă từng tin vào họ.
Nhưng v́ quá giáo điều nên họ
đă không nhận ra được sự tiến hóa rất
chính đáng và tự nhiên của nhân loại. Khi xă hội bộ
lạc-du mục không c̣n thích hợp th́ chuyển sang chế
độ định cư, lập làng xă, chọn cách tổ
chức thích hợp để xây dựng xă hội mới.
Khi chế độ phong kiến trở thành lạc hậu
và tàn bạo, cản đường tiến hóa của nhân
dân th́ quyết giă từ nó; khi chế độ toàn trị
theo Marx-Lenin đă bị thực tế phủ nhận th́ nếu
sáng suốt, họ phải quyết chuyển sang DCĐN,
tôn trọng các giá trị con người, khuyến khích những
sáng tạo và tham gia tích cực của mọi thành phần.
V́ bảo thủ mù quáng nên họ vẫn cố
giữ thái độ và tư duy cũ đă lỗi thời
và hoàn toàn sai lầm. V́ thế họ đă cấm đoán,
đàn áp đảng viên và nhân dân nói khác, nghĩ khác và hành
động khác. Họ sẵn sàng tiếp tục sử dụng
cả dối trá, tàn bạo, thậm chí cả nhân danh
người đă khuất để biện minh cho các hành
động cực ḱ sai lầm và độc ác. Đến
khi bị kẹt cứng (khi Liên xô sụp đổ) họ
lôi cả HCM làm lá chắn để bảo vệ quyền
lực và tiền bạc cho cá nhân, gia đ́nh và vây cánh!
Công thức để thực hiện
“đổi mới” suốt trên 30 năm qua chỉ loay hoay
trên thái độ và tư duy cũ. Đó là: Chủ nghĩa
Marx-Lenin + Đi theo con đường của Bác đă chọn.
Họ bắt mọi người phải tin theo và làm
như họ. Thậm chí c̣n ra lệnh cho các nhà khoa bảng
XHCN không được suy nghĩ khác và phải khẳng
định rằng, chỉ có CNXH theo Marx-Lenin như Bác
đă chọn là đúng muôn đời! Đỗ Mười
đă ra lệnh như vậy. Cựu CTN Nguyễn Minh Triết
từng hô “bỏ Điều 4 Hiến pháp là tự sát”.
Nguyễn Phú Trọng đă ngạo mạn phán rằng,
“đi lên CNXH là nguyện vọng của nhân dân” và mạt
sát các trí thức và chuyên viên đ̣i bỏ Điều 4 Hiến
pháp là “suy thoái đạo đức”!
Chính v́ vậy từ Đỗ Mười
tới Nguyễn Phú Trọng, là hai người chính nắm
quyền trên 30 năm qua, phải dựng lên bộ máy công
an trị hà khắc và sử dụng trí trá, độc ác,
giả nhân giả nghĩa để tham nhũng quyền lực
và tiền bạc cho chính họ và phe nhóm!
Sử dụng những thủ đoạn
và phương pháp gian trá, độc đoán để thực
hành các ư thức hệ sai lầm và những hành động
cực ḱ mù quáng và tàn bạo suốt trên 30 năm qua đă
chứng minh rất rơ ràng: Họ đă tự đánh mất
tư cách, cực ḱ vô trách nhiệm đối với đảng
viên và nhân dân, kể cả với hàng triệu người
đă hi sinh. V́ thế sự cầm quyền và tồn tại
của họ và phe nhóm là hoàn toàn bất chính, phản lại
nguyện vọng chính đáng của nhân dân và đi ngược
với trào lưu của thời đại!
______________________________
Thân mời đọc tiếp
Chương kết: Các nguyên nhân, người chịu trách nhiệm và hậu
quả của „Đổi
mới“ lừa bịp.
Chương cuối: Phải dứt khoát
đoạn tuyệt với chủ nghĩa Marx-Lenin, mọi
người quyết phá rào cản độc tài, cùng nhau
đứng lên nắm lấy cơ hội kiến tạo
một Nước Việt Nam Mới: Những
điều nên nhớ, nên tránh và nên làm!
Và Mục lục toàn bộ sách và lời Dẫn
nhập.
Mục Thời sự
Tạp chí Dân chủ & Phát triển điện tử:
hay www.dcvapt.net
[1] . CP 31.12.14
[2] . BBC 20.4.16; theo con số
khác th́ lợi tức đầu người của VN
năm 2014 là 1890 USD, der neue
Fischer Weltalmanach 2016, tr. 502
[3] . Đời sống&pháp luật, 31.1.18
[4] . Fischer Weltalmanach 2017, tr. 531
[5] . CS 21.1.16
[6] . http://vietnamnet.vn/vn/thoi-su/bai-phat-bieu-tam-huyet-thang-than-cua-bo-truong-bui-quang- vinh-286196.html -có cả video,VNNet 23.1.16; BBC 22.1.16
[7] . GS. Vũ
Dương Ninh, Đại học Quốc gia HN, VN sau 30
năm đổi mới, thành tựu và triển
vọng, sách lưu hành nội bộ.
[8] . Trần Đ́nh
Thiên, quản trị công trong quá tŕnh chuyển đổi và
tái cơ cấu kinh tế ở VN: một cái
nh́n tổng quan, Nghiên cứu kinh tế (NCKT) 1.2014, tr.21, 17-22
[9] . Sách đă dẫn (Sđd), tr. 20
[10] . GS Trần Văn Thọ, Cú sốc thời gian và kinh tế VN, Thời báo kinh tế Sàig̣n (TBKTSG),Xuân 7.2.16
[11] . GS Trần Văn
Thọ, Góp ư Đại hội Đảng 12:Đánh giá
thành quả phát triển của VN từ sau Đổi
mới, Vietnamnet (VNN)16.11.15
[12] . Âu Dương Thệ, die politische Entwicklung…., sđd, tr. 82 t.th.
[13] . Âu Dương Thệ, sđd
[14] . Tổng cục Thống
kê, T́nh h́nh kinh tế - xă hội năm 2017;
[15] . Lê Cao Đoàn, cấu
trúc và tái cấu trúc nền kinh tế trong quá tŕnh phát triển
của VN, NCKT,
10.2013, tr.18
[16] . Đỗ Hoài Nam, sđd, tr.7
[17] . Nh.t., tr.10-11
[18] . „Diễn đàn Nông nghiệp“, CP 16.10.16
[19] .„Gạo Việt thua Lào, Campuchia, chỉ xuất đi... TQ“, Infonet 28.3.16
[20] . CS 30.9.16
[21] . 50 triệu nông dân điêu đứng, Nam
Nguyên, RFA 17.6.13,
[22] . http://vtv.vn/chuong-trinh-dac-sac/30-nam-doi-moi-nong-nghiep-va-phat-trien-nong-thon-20150910110734265.htm
[23] . Infonet 30.9.16
[24] . Infonet 27.9, 30.9.16
[25] . NCKT 11.15, tr.52.
[26] . Infonet 28.6.16
[27] . Thể chế cản trở sự phát triển của thị trường đất nông nghiệp Việt Nam, RFA 20.11.18
[28] . Nông dân sau 40 năm thống nhất đất nước, Nam Nguyên RFA 27.1.15
[29] . 50 triệu nông dân điêu đứng, Nam Nguyên RFA,17.6.15
[30] . Đỗ Hoài Nam, sđd, tr.15
[31] . TBKTSG 22.10.15
[32]
. Phạm Bích Ngọc, Thương mại
VN-TQ: những rủi ro phát triển, NCKT 10.14, tr. 74 ,
www.baomoi.com/Tan-tao-ma-nang-suat-van-thap/45/14822298.epi , 16.9.14
[33] . Công an nhân dân (CAND) 27.11.18; VNEc 27.11
[34] . TBKTSG 16.11.18
[35] . Nông nghiệp VN, 27.11.18
[36] . RFA 17.6.13; TS Đào
Thế Anh, chuỗi giá trị lúa gạo Đồng bằng
sông Cửu long:Chính sách nông
nghiệp và thương mại thiếu hiệu quả, NCKT 8.15, tr.24-36
[37] . Tô Văn Trường ,Bauxite Viet Nam 17.03.15
[38]
. VNN 1.11.15; ‘Bát
cơm vàng’ của Việt Nam đang biến mất,
[40] . Hoàng Quế, Dân chủ & Phát triển (DCPT) 27,12.03, tr. 27
[41] . TS Nguyễn Chiến Thắng, ThS
Bùi Thị Hồng Ngọc, Thu hút FDI Hàn quốc vào VN: thực
trạng và
định hướng”, NCKT 3.14, tr59-67, 64
[42] . Tạp chí CS, “Dầu tư trực
tiếp nước ngoài vào lănh vực xây dựng và bất
động sản - thực trạng và
những vấn đề đặt ra, Nguyễn Thanh Nga & A-lếc-xơ Ua-ren, 11.2008, 60-66,tr. 60
[43] . SGTB 21.7.2018
[44] . SGTB 15.7.18 (https://www.thesaigontimes.vn/275054/nghich-ly-fdi.html).
[45] . VOV 30.8.18
[46] . FDI: Lỗ âm vốn chủ sở hữu nhưng vẫn hoạt động b́nh thường, SGTB 24.7.18
[47] . NCKT 3.14, tr. 65
[48] . TCCS 11.2008, sđd, tr. 64; NCKT 3.14, tr.65
[49] . TS Nguyễn Thị Kim Anh, chuyển
giá và chống chuyển giá của các công ti xuyên quốc gia
tại VN,
NCKT 4.13, tr. 47-53; TS Nguyễn Thị
Lan, thực trạng chuyển
giá của các công ti đa quốc gia
hoạt động trên lănh thổ VN, NCKT 6.14, tr. 56-62
[50] . PGS TS Kê Khương Ninh, thực
trạng nông hộ ở Đồng bằng song Cửu
long sau 7 năm thực hiện
chính sách tam nông, NCKT 11.14, tr.63
[51] . Bùi Văn Dũng, nhà ở cho người lao động tại các khu công nghiệp VN, NCKT 1.14, tr.61-68.
[52] . NCKT 3.14, tr. 66
[53] . Zing VN 28.10.17
[54] . Vũ Dung, FDI và "bài toán"
chuyển giao công nghệ, QĐND 23.11.17; VNEconomy đưa
ra con
số rất khác biệt, VNE 26.11.18
[55] . Sđd; QĐND 23.11.17
[56] . Sđd
[57] . VNE 30.11.18
[58] . Trả lời phỏng vấn của báo Bild Chủ nhật ngày 17.4.05
[59] . Lương Minh Huân, Đặng Thị
phương Hoa, tại sao doanh nghiệp VN không lớn lên
được?, NCKT
12.14, tr. 28-37, 28
[60] . TBKTSG 13.4.16
[61] . Doanh nghiệp tính gia đ́nh, NCKT 12.14, tr. 29-37
[63] . VOV 21.4.16.
[64] . VNEconomy 7.12.17
[65] . Nguyễn Văn
Nam, Đỗ Thị Thanh Loan, phát triển ngành công nghiệp
phụ trợ trong chiến lược
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở VN, NCKT 11.14, tr. 31-38
[66] . TS Vũ Hùng Cường,
Bùi Trinh, doanh nghiệp ngoài nhà nước: vai tṛ và thực
trạng, NCKT
10.14, 38
[67] . VNE 21.04.15
[68] . CP 22.10.15
[69] . VNECo. 22.12.18
[70] . Süddeusche Zeitung 27.11.17; Der Spiegel 5.2.18
[71] . CP 6.10.17
[72] . http://soha.vn/samsung-se-duoc-uu-dai-nhieu-hon-ve-thue-tai-viet-nam- 20170728134704975rf20171127222649593.htm, Soha 28.7.17
[73] . CP 26.7.17
[74] . VTV 26.7.17
[75] . Soha 28.7.17
[76] . VNEconomy 2.11.17
[77] . http://soha.vn/lai-ca-chuc-nghin-ty-moi-thang-ma-khong-phai-ban-tam-nhieu-ve-thue-loi-nhuan-cua-to-hop-samsung-viet-nam-tiep-tuc-tang-truong-phi-ma-20170912104537955rf20171127222649593.htm, Soha12.9.17; Nguyễn Quang Duy, Tại sao cứ nói „Samsung 100% nước ngoài“?, BBC 31.12.18
[78] . https://dantri.com.vn/kinh-doanh/ket-noi-cac-doanh-nghiep-viet-nhin-tu-chuyen-samsung-20171116235752017.htm
[79] . Lê Đăng Doanh, BBC 19.3.15
[80] . Nh.t.
[81]
. http://soha.vn/lai-ca-chuc-nghin-ty-moi-thang-ma-khong-phai-ban-tam-nhieu-ve-thue-loi-nhuan-cua-to-hop-samsung-viet-nam-tiep-tuc-tang-truong-phi-ma-20170912104537955rf20171127222649593.htm,
Soha12.9.17
[82] . Ngô Nhân Dụng, Bao giờ dân ta làm được cái đinh ốc? Người Việt 6. 1.15
[83] . Infonet 7.10.17
[84] . TBKTSG 1.11.17
[85] . CP 26.7.17
[86] . Soha 23.11.17, Diễn đàn doanh nghiệp 26.11.17
[87] . VNEconomy 23.11.17
[88] . VNEconomy 27.11.17
[89] . CP 26.7.17
[90] . TN 21.4; BBC 23.4.16
[91] . TN 21.4.16
[92] . Nh.t
[93] . VNN 22.4.16
[94] . CP, VNN 22.4.16
[95] . VNN 22.4.16
[96] . BBC 23.4; VOA 24.4;VNN 22.4, facebook Lang Anh 23.4.16
[97] . VOV 23.4.16
[98] . CP 17.4.16
[99] . Tuổi trẻ (TT) 25.4.16
[100] . VOA 24.4.16
[101] . Dân trí 24.4.16
[102] . VNN 23.4.16
[103] . „Formosa nhập nhiều hóa chất cực độc“ TT 25.4.16
[104] . VNN 25.4.16
[105] . BBC 26.4.16
[106] . CAND 26.4.16
[107] . CAND 27.4, LĐ 27.4.16
[108] . Thanh niên (TN) 28.4.16
[109] . TN ,nh.t
[110] . VOA 28.4.16
[111] . Lao động 28.4.16
[112] . CS 27.2.12
[113] . Tuyên bố của các tổ
chức xă hội dân sự độc lập về thảm
họa quốc gia tại các tỉnh miền Trung,
29.4.16
[114] . Video họp báo ngày 30.6: http://tuoitre.vn/tin/chinh-tri-xa-hoi/20160630/truyen-hinh-truc-tiep-cong-bo-thu-pham-lam-ca-chet-hang-loat/1127773.html ; VNN 30.6.16
[115] . VNN 30.6.16
[116] . Trương Minh Tuấn, Bộ trưởng 4 T, Infonet 1.7.16
[117] . Lao động (LĐ), 17.10.16
[118] . CAND 20.10.16
[119] . Người Việt 18.10.16;
Linh mục Anton Đặng Hữu Nam trả lời phỏng
vấn của nhà báo Trần
Quang Thành, DQVN 19.10.16
[120] . Báo cáo chính trị ĐH 8: http://www.lichsuvietnam.vn/home.php?option=com_content&task=view&id=1164&Itemid=5
[121] . Báo cáo chính trị ĐH 9 http://www.vietnam.gov.vn/portal/page/portal/chinhphu/NuocCHXHCNVietNam/ThongTinTongHop/noidungvankiendaihoidang?categoryId=10000714&articleId=10038377
[122] . Nh.t.
[123] . https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Doanh-nghiep/Luat-doanh-nghiep-nha-nuoc-2003-14-2003-QH11-51698.aspx
[124] . PGS,TS Nguyễn Chí
Hải, ThS Nguyễn Thanh Trọng, kiểm soát độc
quyền đối với doanh nghiệp
nhà nước trong nền kinh tế thị trường ở VN, NCKT 6.15, 3-11, 5.
[125] . Nh.t., tr. 6
[128].http://vanban.chinhphu.vn/portal/page/portal/chinhphu/hethongvanban?class_id=1&mode=detail&document_id=95211
[129] . Infonet 27.4.17
[130] . HNTU 11, CP 7.5.15. Xem Chương bẩy, VIII.
[131] . Sđd